NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ LÀ HỆ THỐNG KÍ HIỆU THỨ SINH

V. Chiupa

  Lã Nguyên dịch

Văn học là một loại hình nghệ thuật. Nó vẫn thường được gọi là “nghệ thuật ngôn từ”. Thế tức là nghệ thuật rộng hơn văn học. Cho nên, ta buộc phải nói về nghệ thuật theo cả nghĩa rộng, lẫn nghĩa hẹp của khái niệm ấy.

Theo nghĩa rộng, chữ “nghệ thuật” gắn với ý niệm về sự khéo léo, tinh tế, có thể sử dụng để chỉ bất kì một kĩ năng thực tế nào, ví như nghệ thuật ẩm thực. Theo nghĩa hẹp, nó là khái niệm chỉ “loại” dành cho các dạng hoạt động độc đáo trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, ví như âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh và, tất nhiên, văn học. Những lĩnh vực hoạt động này yêu cầu các sản phẩm do nó chế tác phải đạt tới một “giới hạn” hoàn thiện nghệ thuật nào đấy mà nếu nói theo lời của Kant thì nó “không thể du di được”[1].

Theo nghĩa rộng, lời nói hoa mĩ có thể gọi là “nghệ thuật ngôn từ”. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về văn học như một dạng nghệ thuật theo nghĩa hẹp, nghĩa đặc biệt, chỉ một dạng hoạt động mang tính nghệ thuật.

          Tất cả những gì có quan hệ với con người, tựu trung có thể chia thành ba loại: hoặc là sự vật (kể cả những “vật sống động”), hoặc là cá nhân, hoặc là kí hiệu. Chất liệu để dùng trong nghệ thuật theo nghĩa hẹp, tức là để nghệ sĩ  sử dụng trong hoạt động nghệ thuật mang tính chuyên nghiệp của anh ta chính là các kí hiệu. Quét sơn lên bề mặt của tấm ván, hay bức tường, người thợ sơn sử dụng  sơn như một đồ vật. Nhưng khi họa sĩ cũng sử dụng chính thứ sơn ấy như một phương tiện tạo hình, nó trở thành một kí hiệu. Mọi hoạt động, nếu được tiến hành với các kí hiệu, chứ không phải với các đồ vật, hay với các cá nhân, đều gọi là hoạt động kí hiệu học. Là một loại hình nghệ thuật, văn học cũng là hoạt động tín hiệu, hoạt động kí hiệu học.

Các tín hiệu đặc biệt được con người lựa chọn để giao tiếp với nhau (ví như lời nói), cũng như các đồ vật, hoặc các sinh thể đều có thể trở thành kí hiệu. Chẳng hạn, cơ thể người nghệ sĩ trong vở diễn trên sân khấu chính là kí hiệu. Nếu vì một lí do nào đó, chúng ta chỉ nhìn thấy ở cơ thể của người nghệ sĩ ấy một cái thân xác đang động cựa, thì vở diễn sẽ mất hết hiệu quả nghệ thuật nữa. Cho nên, là sự trình diễn thể hiện kĩ năng sử dụng cơ thể, xiếc không phải là nghệ thuật hiểu theo nghĩa đặc biệt, giống như ta nói về văn học, âm nhạc, hội họa, hay nhà hát. Mọi đồ vật, mọi sinh vật đều có thể sử dụng làm kí hiệu cho một cái gì đó. Chỉ riêng cá nhân thì không thể trở thành kí hiệu của một cais gì đó, mà vĩnh viễn là người sử dụng kí hiệu. Bản chất của kí hiệu nằm ở chỗ, nó là vật thay thế cho một cái gì đó. Là hoạt động kí hiệu học, nghệ thuật có nguồn cội từ các nghi lễ ma thuật được tiến hành bằng các nhân vật thay thế cho các đối tượng hoặc bản thể mà tác động ma thuật muốn nhắm tới.

Nhưng từ trong bản chất, không thể qui kí hiệu về các hiện tượng vật chất dùng để thay thế. Đồ vật, những tín hiệu nhân tạo (ví như các chữ cái) hoặc các sinh thể (bao gồm cả con người, nhưng không trong tư cách là cá nhân) sẽ trở thành kí hiệu nếu chúng tham gia vào một loại quan hệ đặc biệt – quan hệ kí hiệu học. Mỗi một kí hiệu bao giờ cũng có ba bình diện: bình diện biểu đạt, hay là tên của tín hiệu, bình diện được biểu đạt – nghĩa của kí hiệu và bình diện hiện thực hóa – ý nghĩa của nó. Mỗi bình diện như vậy là một mặt của các mối quan hệ mà tổng thể của chúng sẽ làm cho kí hiệu trở thành kí hiệu.

          Tín hiệu – là quan hệ giữa kí hiệu với một ngôn ngữ cụ thể. Nếu không có một ngôn ngữ tương ứng, thì không thể có kí hiệu. một dấu hiệu nào đó, ví như triệu chứng của một căn bệnh hoàn toàn không phải là kí hiệu theo nghĩa kí hiệu học, vì các triệu chứng y học có thể sẽ được phát hiện và được mô tả, nhưng không ai sử dụng chúng làm phương tiện giao tiếp giữa bệnh nhân và bác sĩ. Triệu chứng là cái tự nhiên, đương nhiên, trong khi đó kí hiệu lại là cái được qui ước, bao giờ cũng mang tính ước lệ. Cần nhấn mạnh, rằng khi nói tới các ngôn ngữ, ta không chỉ hàm chỉ các ngôn ngữ “tự nhiên” của dân tộc, nơi ngôn từ – các tên gọi của nghĩa được xem là kí hiệu, mà còn hàm chỉ mọi hệ thốngkí hiệu nhân tạo có thể sử dụng để kiến tạo văn bản. Ngược lại, khi nói tới văn bản chúng ta không chỉ hàm chỉ các văn bản bằng lời, mà còn hàm chỉ mọi cấu trúc kí hiệu(chữ “texte” có gốc La Tinh “textum” có nghĩa là kết nối) có chứa đựng ý nghĩa.

          Nghĩa – là quan hệ giữa kí hiệu với một thực tại, thực tại ấy không nhất thiết phải có thật. Để được sử dụng như một kí hiệu, một vật thay thế nào đó cần phải trở thành cái tham chiếu (tiếng Pháp: referent, gốc La Tinh: referre nghĩa là thông báo), tức là nó phải tương ứng hoặc là với một hiện thực có thật được nó thay thế (mô hình hóa), hoặc một hiện thực khả thể, hay hiện thực hư cấu, không có thật. Nghĩa của kí hiệu là mô hình của một hiện tượng đời sống nào đó trong tư duy, chứ không phải đời sống mà kí hiệu chỉ ra.

          Ý nghĩa – đó là quan hệ giữa kí hiệu với ý thức nhận biết không chỉ có khả năng phân biệt các kí hiệu riêng lẻ của ngôn ngữ, mà còn có khả năng nắm bắt trật tự tổ chức của các kí hiệu. Chẳng hạn, từ trong từ điển có nghĩa, nhưng không có ý nghĩa. Chỉ trong ngữ cảnh của một phát ngôn nào đó, được kết hợp với những kí hiệu khác của ngôn ngữ, nó mới có ý nghĩa. Nói cách khác, ý nghĩa bao giờ cũng có tính ngữ cảnh.

          Một văn bản có kết cấu chặt chẽ bao giờ cũng chứa đầy ý nghĩa tiềm năng mà ý thức tiếp nhận sẽ buộc chúng phải hoạt động, tức là phát hiện và làm cho chúng trở thành cái hiện hữu,  mang tính quan niệm. Tính quan niệm của ý nghĩa làm nảy sinh khả năng thay thế (tính đối lập, tính không đồng nhất) bằng một ý nghĩa khác, hoặc một loạt ý nghĩa có thể có trong một ngữ cảnh cụ thể. Ý nghĩa không mang tính khách quan giống như nghĩa, không mang tính chủ quan giống như phản ứng của ý chí-tình cảm; chính tính quan niệm đã nối kết xung quanh nó tất cả những ai tiếp nhận ý nghĩa ấy.

Ba thuộc tính của kí hiệu vừa nêu ở trên – tính qui ước, tính tham chiếutính quan niệm – là thuộc tính chung, có ở mọi hoạt động kí hiệu học, bao gồm cả các dạng hoạt động nghệ thuật. Hoạt động nghệ thuật tác động tới các khả năng thụ cảm kí hiệu trong tâm thức của chúng ta (thực tiễn – tinh thần) từ các bình diện: a) cái nhìn bên trong; b) thính giác bên trong và c) lời nói bên trong (phi định hình về mặt cú pháp).

Thoạt nhìn, các nghệ thuật tạo hình – hội họa, đồ họa, điêu khắc – chỉ làm công việc chế tác đồ vật. Nhưng thực ra, chúng sử dụng các sự vật như những kí hiệu. Từ các kí hiệu vật chất ấy, chúng sáng tạo ra các văn bản không lời. Nếu ở bình diện vật chất, tác phẩm hội họa, hoặc điêu khắc tác động trực tiếp tới giác quan của con người, thì ở bình diện tổ chức kí hiệu (văn bản) chúng tác động tới cái nhìn trong tâm thức của chúng ta (suy luận trừu tượng), với cái nhìn ấy, màu sắc, đường nét, hình khối trở thành các đơn vị tư duy và có ý nghĩa độc đáo của một loại ngôn ngữ đặc biệt (trực quan). Có thể xem các tín hiệu giao thông là thí dụ đơn giản nhất về loại ngôn ngữ ngoài lời như vậy.

Là nghệ thuật biểu hiện, âm nhạc cũng sử dụng các tín hiệu âm thanh nhân tạo hoặc âm thanh của lời nói trong ngôn ngữ tự nhiên như những kí hiệu của một loại ngôn ngữ đặc biệt (ngôn ngữ thính giác). Ngôn ngữ ấy tác động tới thính giác bên trong, với thính giác ấy, đó là ngôn ngữ có rất nhiều ý nghĩa. Trong khi ấy, thính giác bên ngoài của chúng ta tiếp nhận âm nhạc một cách rất “vật chất”, cường độ âm thanh và sự réo rắt của âm nhạc có thể khiến thính giác bị khó chịu, hoặc được xoa dịu.

Cuối cùng là các loại hình nghệ thuật thị giác: sân khấu và điện ảnh. Các loại hình nghệ thuật này sử dụng khả năng của con người như một sinh thể được các đồ vật và những người khác cùng hoạt động với nó bao quanh, đóng khung lại theo một cách nào đó. Các kí hiệu hành vi của con người trở thành các đơn vị của một loại ngôn ngữ đặc biệt (mô tả) tác động tới khả năng tâm thức thuộc ngôn ngữ bên trong của chúng ta. Bởi vì mọi sự hiểu, mà ở đây chính là hành động của diễn viên trên sân khấu tác động tới sự hiểu của khán giả đối với các xung động và động cơ của hành vi ấy, rốt cuộc đều là “sự phiên dịch ngôn ngữ tự nhiên sang ngôn ngữ bên trong”[2]. Ý nghĩ của chúng ta, những ý nghĩ sau đó cần được sắp xếp lại thành ngôn ngữ người khác có thể hiểu[3] sẽ được hình thành trong hệ thống ngôn ngữ giao tiếp tự động không có ngữ pháp – ngôn ngữ của “lời nói bên trong với mình” ấy.

Các hệ thống kí hiệu điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, màu sắc, âm thanh…được hình thành dần dần trong đời sống của người nguyên thủy (trong đời sống của sinh vật cũng có những hệ thống kí hiệu tương tự như vậy). Nghệ thuật xuất hiện trên nền tảng của các hệ thống kí hiệu như vậy, nó củng cố chắc chắn khả năng của các hệ thống kí hiệu ấy, giúp cái “tôi” của con người ngày càng thích ứng với thế giới xung quanh.

Văn học khác biệt hoàn toàn với các loại hình nghệ thuật khác ở chỗ, nó sử ngôn ngữ tự nhiên của con người làm kí hiệu. Đó là hệ thống kí hiệu có sẵn, đã hoàn bị, đồng thời hoàn hảo nhất. Nhưng nó sử dụng các khả năng của hệ thống ngôn ngữ gốc này chỉ để tạo ra văn bản thuộc về hệ thống kí hiệu thứ sinh[4]. Nghĩa và ý nghĩa của các kí hiệu lời nói (kí hiệu ngôn ngữ học) trong các văn bản nghệ thuật tự chúng trở thành “tên gọi” của các kí hiệu khác – kí hiệu siêu lời nói, siêu ngôn ngữ học.

Các kí hiệu thứ sinh này thường gọi là mô tip. Trong văn bản được hiểu như một hệ thống mô tip, ý nghĩa nghệ thuật không phải do các câu và các tổ chức cú pháp tạo thành, mà được tạo thành bởi chức năng giao tiếp: ai nói? nói thế nào? nói cái gì? nói trong tình huống nào? nó cho ai nghe?  Ý nghĩa của vở kịch trên sân khấu cũng y hệt như vậy, vì nghệ thuật ngôn từ cũng là nền tảng của nghệ thuật sân khấu.

Nhưng không nên gán trực tiếp bất kì một lời nói nghệ thuật nào cho cá nhân nhà văn. Người nói trong các tác phẩm hoặc là các hình tượng (nhân vật) đóng thế cho tác giả, hoặc là đại diện của ông ta – các mặt nạ ngôn ngữ nói lên sự hiện diện của tác giả trong văn bản (người trần thuật, người kể chuyện, kí giả, chủ thể trữ tình…). Rốt cuộc, cả hai trường hợp ấy đều sở đắc vị thế của các nhân vật văn học. Ngay cả trong thơ tự bạch trữ tình tâm tư, hình tượng tác giả không phải là người đang nói (nhân vật trữ tình), mà là người đang lắng nghe, đang tìm hiểu, đang đánh giá cái người nói ấy như lắng nghe, đánh giá một người khác.

Theo quan niệm sâu sắc của M.M. Bakhtin, văn học là nghệ thuật “nói gián tiếp”[5], cho nên nhân vật tác giả đích thực (từ quan điểm nghệ thuật), luôn được “bọc kín trong im lặng”[6], còn bản thân. Tác giả không dùng ngôn ngữ bằng lwoif để nói với chúng ta, mà giao tiếp với chúng ta bằng ngôn ngữ thứ sinh (ngôn ngữ nghệ thuật).  Cho nên, chỉ mỗi chỉnh thể văn bản là thuộc về tác giả. Cái chỉnh thể văn bản này được kiến tạo bằng ngôn từ đa phần là của các chủ thể lời nói hư cấu, của “người khác” so với tác giả, hoặc với tác giả, là “người khác của bản thân mình”. Chỉ ở những văn bản không có tính nghệ thuật nhà văn mới “tự nói”, “nhân danh bản thân” để nói. Trong phạm vi của lời nói nghệ thuật, lời nói thuộc về tác giả – nếu có những lời như vậy – chỉ là những câu chữ đóng khung siêu văn bản (tức là “văn bản về văn bản”): nhân đề, đề từ, đề tặng, ghi chú.

 Tuy nhiên, đôi khi cũng có trường hợp nhà văn trực tiếp nhân danh cái “tôi” của bản thân để nói. Trong những trường hợp như thế, mạng lưới nghệ thuật bị xé rách bời những đoạn văn chính luận, hoặc một loại văn khác chêm vào. Ở những đoạn văn chem. Vào này, ngôn từ và cấu trúc lời nói lại quay trở về với bản chất kí hiệu gốc của chúng.

Khác với lời nói phi nghệ thuật, văn bản nghệ thuật không tác động trực tiếp vào ý thức của chúng ta, mà tác động gián tiếp thông qua thị giác bên trong, thính giác bên trong và sự thức nhận tác phẩm diễn ra dưới hình thức ngôn ngữ bên trong của chúng ta. Sự tác động này được tổ chức bằng hoạt động kí hiệu học của tác giả, người sử dụng các phát ngôn gốc để kiến tạo những phát ngôn phái sinh:  một văn bản duy nhất như là “tổng thể các yếu tố của ấn tượng nghệ thuật”[7].

Những ý kiến nói trên của M. Bakhtin có thể xác định bản chất kí hiệu học của tác phẩm hội họa, điêu khắc, một vở nhạc kịch, kịch sân  khấu. Nhưng để tổ hợp các kí hiệu – các yếu tố của hoạt động tiếp nhận trong ý thức – trở thành văn bản, cần phải có ba bình diện cơ bản như sau[8]: a) Tính biểu lộ – sự biểu hiện bề ngoài trong chất liệu kí hiệu. Đặc điểm này giúp phân biệt văn bản với những bức tranh trong tưởng tượng. b) Tính phân giới trong không gian (khung, hàng đèn trước sân khấu) hoặc trong thời gian (mở đầu và kết thúc). Đặc điểm này giúp phân biệt văn bản với tư cách là những tổ hợp kí hiệu với những tổ hợp kí hiệu không có sự phân giới như các ngôn ngữ. c) Tính cấu trúc nội tại. Đặc điểm này giúp phân biệt văn bản với bảng chữ cái hoặc một tập hợp ngẫu nhiên các kí hiệu.

Mọi kí hiệu, kể cả những tổ chức kí hiệu đặc thù mà nghệ thuật sử dụng, ngoài ngữ nghĩa (khả năng tương thích với hiện thực được thay thế), đều còn có hai đặc điểm cấu trúc tối quan trọng: tổ hệ (syntagme – trục kết hợp) và từ hệ (paradigme – trục lựa chọn). Tổ hệ tạo ra khả năng nối kết về mặt cấu trúc kí hiệu này với các kí hiệu khác để tạo ra một văn bản có mạch lạc chặt chẽ. Từ hệ tạo ra khả năng lựa chọn khu biệt kí hiệu này với các kí hiệu khác đảm bảo cho sự xuất hiện của ý nghĩa trong văn bản.

Nếu tổ hệ làm cho kí hiệu trở thành một yếu tố của văn bản, thì từ hệ trong ngôn ngữ của nó, thì từ hệ làm cho kí hiệu thành yếu tố của ngôn ngữ. Với tư cách là cơ chế giao tiếp, ngôn ngữ là một tập hợp từ hệ. Từ hệ ngôn ngữ là chuỗi biến thể của các kí hiệu mà bao giờ người ta cũng chỉ được lựa chọn từ đó một kí hiệu duy nhất để kiến tạo các văn bản khúc chiết và có ý nghĩa. Chẳng hạn, tổ hệ cú pháp của các biến cách và chia động từ là thí dụ như vậy (từ tổ hợp các hình thái của từ dùng khi phát ngôn cần lựa chọn một hình thức phù hợp nhất. Đặc trưng của từ hệ ngữ nghĩa đảm bảo cho sự sinh nghĩa của ngôn ngữ được xác định bởi từ đồng nghĩa (cùng một nghĩa có nhiều cách gọi tên) và từ đồng âm (cùng một tên có một số nghĩa).

Chúng ta hiểu một phát ngôn thông thường bằng lời nói bằng cách đối chiếu văn bản của nó (tổ hợp tổ hệ của các kí hiệu) với một ngôn ngữ (tổ hợp từ hệ của các kí hiệu) mà chúng ta đã biết từ trước. Nhưng với một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, mọi chuyện có thể diễn ra rất khác. Ở đây phát ngôn đi trước ngôn ngữ khá xa, và điều đó làm nên đặc trưng kí hiệu học của nghệ thuật như là hoạt động kí hiệu của một dạng hết sức đặc biệt.

Khi đọc một tác phẩm văn học, đặc điểm này của phát ngôn nghệ thuật thường bị bỏ qua, vì người đọc quá rành ngôn ngữ dân tộc của văn bản. Nhưng ngôn ngữ dân tộc ấy không phải là ngôn ngữ nghệ thuật. Chẳng hạn, trong truyện Cái mũi của N.V. Gogol, kí hiệu quan trọng nhất chứa đựng một ý nghĩa hết sức cơ bản nào đó hiển nhiên là sự biến mất của cái mũi của viên thiếu tá Kovalev. Mô tip cái mũi biến mất đúng là một kí hiệu, nhưng nó là kí hiệu của cái gì? Nếu tách ra ra khỏi thiên truyện của Gogol, vị tất đã có một ngôn ngữ mà trong từ vị của nó sự thay đổi diện mạo ấy có một nghĩa tương thích.

Vấn đề ở đây tuyệt nhiên không phải là tính chất huyễn tưởng của biến cố bất ngờ (khiến không thể đọc nó như một triệu chứng y học). Các kí hiệu của ngôn ngữ nghệ thuật có thể chỉ là các sự thực bình thường, dễ nhận biết. Tỉ như “cái túi đỏ” mà ở chương XXIX, phần đầu tiểu thuyết của L.N. Tolstoi, Anna Karenhina đã lấy ra một “cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Anh” và “gắng đọc” (mặc dù thay vì chuyện đọc, lúc ấy nàng “chỉ thiết tha được sống”) và đến chương cuối phần bảy nó đã “giữ nàng lại” một khoảnh khắc trong lúc nàng tự vẫn, nhưng lại bị tuột ra, cũng là một kí hiệu. Và cũng như vậy, đặt ra bên ngoài phạm vi văn bản tiểu thuyết Anna Karenhina, ta không thể tìm được cách giải nghĩa cho tiểu mô tip ấy. Nghệ sĩ nói bằng ngôn ngữ của lời nói nội tâm của mình. Hiện tượng về lối nói phi diễn ngôn (không thể chia tách các âm, từ và câu) rất khác biệt với ngôn ngữ diễn ngôn trong lời nói bên ngoài của chúng ta (hiện tượng này  đã được L.S. Vygotski và N.I. Zinkin nghiên cứu kĩ).

Theo Vygotski, nét độc đáo cơ bản của lời nói nội tâm với “cú pháp vị từ thuần túy” của nó là ở chỗ, nó “hoạt động chủ yếu bằng ngữ nghĩa” của ý thức ngôn ngữ. Hơn nữa, trong bản thân lĩnh vực ngữ nghĩa, sự độc đáo ấy lại nằm ở “ưu thế tuyệt đối của ý nghĩa của từ so với nghĩa của nó”, cũng như ở cái tương đương của các đơn vị ý nghĩa thuộc về một chiều kích khác.  Chẳng hạn, cái tương đương của những các nhan đề là toàn bộ văn bản: nhan đề gần như có thể thay thế toàn bộ văn bản. Theo Vygotski, “từ” phi ngôn ngữ (đơn vị ngữ nghĩa) của ngôn ngữ nội tâm “tựa như thâu nạp vào bản thân ý nghĩa của những từ đi trước và đi sau bằng cách mở rộng vô giới hạn cái khung nghĩa của mình <…> Muốn phiên dịch loại nghĩa này ra lời nói bên ngoài phải mở rộng các ý nghĩa đã được rót vào một từ ra bức tranh toàn cảnh của các từ”[9].

Vị thế ngữ nghĩa của từ “cánh buồm” trong bài thơ cùng tên của Lermontov, hay từ “cái mũi” trong thiên truyện của Gogol chính là như thế. Đơn vị ngữ ngĩa của ngôn ngữ nghệ thuật ví như “chiếc túi đỏ” trong tiểu thuyết của Tolstoi có thể được biểu thị trong văn bản chỉ bằng một từ hoặc một tổ từ, nhưng nó có thể chứa đựng trong bản thân một phạm vi ngữ nghĩa hết sức rộng rãi và sâu sắc. Mặt khác, mọi đơn vị ngữ nghĩa thuần túy, có ý nghĩa quan trọng đối với cá nhân, không phải ai cũng hiểu như nhau[10] đều có thể triển khai thành cả một “bức tranh toàn cảnh của ngôn từ” (thành câu, đoạn, hay thậm chí cả một văn bản).

“Tính chất vị từ thuần túy và tuyệt đối như hình thức cú pháp cơ bản của ngôn ngữ nội tâm”[11] là đặc điểm cực kì quan trọng của loại phát ngôn phi diễn ngôn.

Văn bản nghệ thuật hoàn toàn có thuộc tính như vậy. Chẳng hạn, từ quan điểm ngôn ngữ học, ở dòng thơ “Trắng lên một cánh buồm cô độc” (“Белеет парус одинокий”), vị từ – vị ngữ rơi vào từ đầu tiên. Nhưng “chủ ngữ” của phát ngôn nghệ thuật tuyệt nhiên không phải là “cánh buồm”. Ở đây chính “cánh buồm” (cũng như cả “trắng lên”, cả “cô độc”) đều là vị từ của cái không được gọi ra, của phương thức hiện hữu trong thế giới mà tất cả các từ trong văn bản, không có ngoại lệ, đều thực hiện chức năng vị từ trong mối quan hệ với nó.

Tương tự như vậy, toàn bộ bức chân dung hội họa chỉ là “vị ngữ”. Chủ ngữ của vị ngữ ấy là tên của người được mô tả trên bức vẽ, có ghi rõ dưới bức tranh. Nhưng nó không phải là một phần của bức vẽ hội họa.

Cuối cùng,  điểm khác biệt nổi bật nhất của lời nói nội tâm với lời nói bên ngoài là tính chất tự do của tổ chức “giọng điệu” khiến cho bình diện ngữ âm của nó có thể giảm xuống mức tối thiểu, cũng có thể đơn giản hóa và cô đúc tới mức tối đa”[12]. Sự kết hợp của những sai lệch theo các hướng khác nhau so với chuẩn mực ngôn ngữ: sự suy yếu (“giảm thiểu”) và sự tăng cương (“cô đúc”) cũng là bình diện cực kì quan trong giúp ta nhận ra bình diện cuwucj kì quan trọng của hiện tượng ngôn ngữ nghệ thuật.

Đặc biệt, nếu thiếu sự tự do trong tổ chức giọng điệu làm phương tiện cơ bản để nhận thức như vậy, ta sẽ không thể cảm nhận các tác phẩm nghệ thuật tạo hình với ngôn ngữ “câm” của chúng. Mặt khác,  việc chia tách ở lời nói nội tâm bình diện ngữ âm và ngữ nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên sẽ dẫn tới chỗ,  các âm vị sẽ có được giá trị nghệ thuật bổ trợ trong văn học (nhất là trong tơ). Bình diện âm thanh – cấu âm của lời nói trong hoạt động của nghệ thuật ngôn từ buộc phải trải qua quá trình ngữ nghĩa hóa phái sinh: âm vang của các từ, do nghĩa của ngôn ngữ gốc bị bỏ qua, trở thành kí hiệu của nghĩa và ý nghĩa mới.

Đặc điểm độc đáo của nghệ thuật đặt trên nền tảng độc đáo của ngôn ngữ bên trong dẫn tới chỗ, văn bản nghệ thuật nhìn trong tổng thể của nó rất giống với phát hiện khảo cổ – tựa như văn bản duy nhất đã đến được với chúng ta không phải bằng ngôn ngữ được giữ lại. Muốn giải mã cái văn bản ấy cần tái cấu trúc cái ngôn ngữ đã mất. Nhiệm vụ đặt ra trước việc phân tích văn bản nghệ thuật cũng tương tự như vậy.

Lại nữa, mọi sự hiểu thông thường đối với tác phẩm văn học đều là nỗ lực vô tình nhằm khôi phục theo kiểu như trên cái hệ thống kí hiệu vẫn còn là bí mật với chúng ta. Độc giả không thể nhận ra, đến một trình độ nào đó, việc đọc văn bản nghệ thuật luôn luôn “biến thành bài học ngôn ngữ”[13], và mỗi lần đọc tiếp theo giống như một phát ngôn tiếp theo bằng ngôn ngữ mang tính cá nhân này. Về mặt này, nhà nghiên cứu văn học với vai trò “độc giả chuyên nghiệp”, khác xa với độc giả thông thường luôn hiểu rõ sự kiện đọc là cái gì.

Tất nhiên, về nguyên tắc, không thể có loại văn bản nghệ thuật tuyệt đối hy hữu. Bởi vì sẽ không ai có thể tiếp nhận cái kiến tạo mới mẻ ấy như một văn bản. Rất nhiều thành phần của các ngôn ngữ ghệ thuật mang tính liên văn bản, người ta đã bắt gặp ít nhiều ở những tác phẩm khác. Nhưng ngay cả trong ngôn ngữ tự nhiên cũng có yếu tố liên ngôn ngữ, liên dân tộc: yếu tố được vay mượn từ các ngôn ngữ khác hoặc được kế thừa từ ngôn ngữ nguyên sơ.

Sự hiện diện ở văn bản nghệ thuật một ngôn ngữ riêng bên trong nó ( trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình và âm nhạc điều này thể hiện rất rõ) thường được nhìn nhận thông qua phạm trù lí thuyết phong cách. Các sáng tác không có phong cách độc đáo, chỉ mô phỏng quy tắc của các phong cách khác trong văn học, văn chương đại chúng thuộc loại này) không thuộc lĩnh vực nghệ thuật hiểu theo nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của thuật ngữ này. Nó có thể được nghiên cứu từ quan điểm lịch sử văn học, nhưng nằm trong đối tượng của lí luận văn học.

 Phong cách cảu một kiệt tác nghệ thuật dẫu hy hữu thế nào thì nó vẫn có vô vàn yếu tố lặp lại các phong cách của những tác phẩm cùng một loại hình. Tương tự như vậy, mọi ngôn ngữ Ấn-Âu hoặc ngôn ngữ Tuyếc (nhất là các ngôn ngữ Slavow, Romang, hay Đức đều có nhiều đặc điểm chung với nhóm ngôn ngữ tương ứng hoặc một số ngôn ngữ cùng thành phần.

Đặc biệt, các ngôn ngữ nghệ thuật (phong cách) có thể được phân biệt về loại hình theo nguyên tắc cấu trúc chủ đạo của lối nói bóng được chúng sử dụng. Là hệ thống kí hiệu phái sinh, ngôn ngữ nghệ thuật hoạt động bằng cách thế này hay thế khác phá vỡ, làm biến dạng hệ thống kí hiệu gốc của ngôn ngữ tự nhiên. Điều này tạo ra lối nói bong như một đặc điểm kí hiệu học không thể loại bỏ của các văn bản nghệ thuật.

Phúng dụ (Allégorie) đòi hỏi lấn át, thay thế nghĩa của ngôn ngữ gốc bằng các ý nghĩa cần được giải mã. Chẳng hạn, con lừa trong ngụ ngôn không có nghĩa là con vật được gọi tên bằng từ ấy, trong phạm vi của phát ngôn nghệ thuật nó biểu thị một ý nghĩa nào đó (ý niệm về sự ngu dốt).

Biểu trưng (Emblème) thực chất là mở rộng mạnh mẽ lĩnh vực nghĩa của kí hiệu ngôn ngữ trong khi vẫn duy trì ý nghĩa ban đầu của nó. Chẳng hạn, chim hòa bình do Picasso vẽ vẫn giữ lại ý nghĩa về con chim của Noé, đồng thời mở rộng ý ngĩa trong kinh thánh của nó thành mọi sự chấm dứt hành động chiến tranh hoặc các thảm họa thiên nhiên, đưa các ý nghĩa ấy vào thành phần của cái được biểu đạt. Hoặc nếu áp dụng cho người khác, từ “mùa thu Boldino” (năm 1830, thời kì vàng son trong cuộc đời sáng tạo của Pushkin) chứa đựng những thành tựu của anh ta theo nghĩa sáng tạo hứng khởi tương tự như Pushkin.

Biểu tượng (Symbole) trái ngược với biểu trưng như một nguyên tắc cấu trúc của lối nói bóng. Trong khi vẫn duy trì nghĩa ban đầu của kí hiệu ngôn ngữ, biểu tượng hóa mở rộng mạnh mẽ lĩnh vực ý nghĩa của nó. Chẳng hạn, “những cây nến” và “những cuốn sách” trong ngữ cảnh số phận tiểu thuyết của Anna Karenhina là loại biểu tượng như vậy. Các biểu tượng này, vốn không phải là phúng dụ, không thể giải mã theo kiểu đơn nghĩa, nhưng trong phạm vi của chỉnh thể nghệ thuật, hoạt động ý nghĩa của chúng hướng ta tập trung vào nội dung của toàn bộ cuốn tiểu thuyết.

Nghịch dị (Grotesque)  ngược với phúng dụ. Nó là trò chơi bằng nghĩa của ngôn ngữ gốc dẫn tới sự loại bỏ ý nghĩa, thay thế nó bằng ý nghĩa chủ quan. Tính chủ quan của một ý thức tạo sinh văn bản nào đó – của tập thể hoặc cá nhân[14] – được biểu thị bằng trò chơi này. Sự biến mất của cái mũi trong thiên truyện của Gogol hoàn toàn không có một ý nghĩa nào cả, vì thế nó chẳng cần phải giải mã, nhưng nó có giá trị quan trọng gây ấn tượng chủ quan – ấn tượng rất khác nhau với viên thiếu tá và bác thợ cạo, với nhân vật và tác giả, với tác giả và độc giả.

 Có thể bắt gặp những hiện tượng biến đổi của hệ thống kí hiệu gốc như vừa nêu trên trong cùng một văn bản.Nhưng ngôn ngữ văn học độc đáo của một văn bản văn học nào đó bao giờ cũng giữ một vị thế nhất định về mặt kí hiệu học trong tương quan với ngôn ngữ tự nhiên (ngôn ngữ dân tộc). Theo nguyên tắc cấu trúc ấy, các phong cách có thể chia thành các loại hình phúng dụ, biểu trưng, biểu tượng, nghịch dị.

Tất cả những gì được xem là bộ phận cấu thành của một phong cách độc đáo với tư cách là những nhân tố được tái tạo, lặp lại, mang tính loại hình có thể gọi là thi pháp của tác phẩm. Không đồng nhất một cách giản đơn thi pháp với những  đặc điểm của lối nói bóng, vì nó bao gồm trong bản thân các bình diện thể loại và nhiều bình diện tổ chức nghệ thuật khác của tác phẩm. Chính những bình diện này của văn học là đối tượng nghiên cứu lí thuyết – đối tượng của thi pháp học như một khoa học.

Người dịch: LN

Nguồn: Художественный дискурс (Введение в теорию литературы).- Серия«Лекции в Твери». ТВЕРЬ 2002

 


[1] I. Kant- Phê phán năng lực phán đoán// I. Kant – Tuyển tập, bộ 6 tập. M., 1966. T.5, tr. 325.

[2] N.I. Zinkin – Ngôn ngữ. Lời nói. Sáng tạo. M., 198, tr. 161 (tiếng Nga)

[3] L.S. Vygotski – Tư duy và ngôn ngữ// L.S. Vygotski – Tuyển tập, bộ 6 tập. T.2, 1982.

[4] Xem: “Văn học nghệ thuật nói bằng ngôn ngữ đặc biệt, nó là hệ thống thứ sinh được kiến tạo ở bên trên ngôn ngữ tự nhiên”; “Một tổ hợp câu nào đó của ngôn ngữ tự nhiên muốn được thừa nhận là ngôn ngữ nghệ thuật cần chứng minh rằng chúng đã tạo ra một cấu trúc thuộc loại thứ sinh nào đó” (Iu.M. Lotman – Cấu trúc văn bản nghệ thuật. M., 1970, tr. 30).

[5] M.M. Bakhtin – Mĩ học sáng tạo ngôn từ. M., 1979, tr. 289

[6] Tlđd – Tr. 353.

[7] M.M. Bakhtin  – Những vấn đề văn học và mĩ học. M., 1975. Tr. 18.

[8] Iu.M. Lotman – Cấu trúc văn bản nghệ thuật. M., 1970, tr. 67 – 69.

[9] LS. Vygotski – Tuyển tập, bộ 6 tập. T.2, tr. 344, 346, 350.

[10] Chẳng hạn các từ “liompa (лиомпа) trong truyện ngắn cùng tên của Iu. Oleshi, “diêu bông” trong bài thơ của Hoàng Cầm, hay “Cậm cam” trong thơ Nguyễn bình Phương không có trong ngôn ngữ.

[11] L.S. Vygotski – Tlđd. Tr. 333.

[12] L.S. Vygotski – Tlđd. Tr. 346.

[13] Iu.M. Lotman – Bên trong các thế giới tư duy. M., 1999. Tr. 19.

[14] Về mối quan hệ giữa “nghịch dị carnaval” và “nghịch dị tiểu thuyết”, xem: M.M. Bakhtin – Sáng tác của François Rabelais và văn hóa dân gian thời trung đại và Phục Hưng. M., 1990

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Mấy cảm nghĩ về Nhật kí Trong tù của Hồ Chí Minh

 Trần Đình Sử

          1. Có thể xem Nhật ký trong tù là tập thơ chữ Hán cuối cùng trong lịch sử văn học Việt Nam, nhưng tư duy nghệ thuật của nó chủ yếu lại thuộc một loại khác so với truyền thống. Nét nổi bật của thơ ca cổ điển Trung Quốc và Việt Nam là cái nhìn “vũ trụ” đối với con người và cuộc đời. Là những con người sống trong các quan hệ nhân sinh cụ thể, nhưng trong quan niệm, các nhà thơ lại tự thấy họ chỉ sống giữa cỏ cây, núi sông, đất trời. Vì vậy, khi khí khái thì đội trời đạp đất, chọc trời khuấy nước; khi thất ý thì giãi bày với nhật nguyệt, cỏ cây; khi uất hận, hỏi trời xanh, tạo hóa; khi thế cùng, gửi tâm sự vào kiếp sau. Thơ trữ tình Việt Nam từ thế kỉ X cho đến thế kỉ XX, mặc dù có nhiều biến đổi rất quan trọng trong khuynh hướng tư tưởng, tình cảm – và cũng đã có nhiều tài năng lớn, vượt ra khỏi mọi thông lệ thường thấy – nhưng về cơ bản vẫn tư duy trong cái mô hình ấy. Hồi đầu thế kỉ, nhà thơ cách mạng Phan Bội Châu khi vào tù đã nói: “Đã khách không nhà trong bốn biển – Lại người có tội giữa năm châu”, còn cụ Huỳnh Thúc Kháng trong Bài hát lưu biệt lại hát: “Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết”… Lối tư duy này làm cho hiện thực xã hội lịch sử cụ thể bị trừu tượng đi, còn các hình ảnh thiên nhiên thì chứa đầy ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Điều làm cho Hồ Chí Minh mang cốt cách nhà hiền triết phương Đông chính là vì ông vẫn giữ lối tư duy này và thể hiện đặc biệt nổi bật trong thơ chữ Hán thời kháng chiến chống Pháp. Trong nhiều bài thơ chữ Hán làm lúc ấy, Hồ Chí Minh là người làm việc nước sống giữa hoa, chim, trăng, suối, trẻ nhỏ, vườn rau… Cách tư duy này động viên được sự đồng cảm cố hữu tồn tại hàng bao thế kỉ trong tâm lý người Việt, dựng lên hình tượng một con người siêu phàm, ung dung, toàn tâm kháng chiến, hiện thân cho non sông, cốt cách và trí tuệ Việt Nam.

          Vũ trụ trong Nhật ký trong tù vẫn mang đậm màu sắc truyền thống với những “phù vân”, “trùng sơn”, “chinh nhân”, “thu nguyệt”… Nhưng vũ trụ này cũng mang rõ nội dung xã hội, thời đại cụ thể, thể hiện ở nhiều bài. Đáng kể là bài Buổi sớm: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt – Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.” Hoặc bài Cảnh buổi sớm: “Khắp núi nơi nơi rực ánh hồng – Chỉ bởi trước lao còn bóng tối – Mặt trời chưa rọi thấu vào trong.” Nhà ngục được đặt trong một luồng ánh sáng bao trùm đã bộc lộ rõ tính chất cục bộ, lạc lõng của nó. Đọc hết tập thơ, ta thấy nhà ngục đó là cả một xã hội đen tối với những luật lệ riêng lạ lùng, còn mặt trời không còn là nguồn sáng chung trong “nhật nguyệt”, nguồn dương khí của thế giới, mà đã là mặt trời vật chất với những ý nghĩa tượng trưng mới mẻ. Ý nghĩa tượng trưng này thể hiện tập trung ở bài Nắng sớm:

“Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,

Đốt tan khói đặc với sương dày;

Đất trời phút chốc tràn sinh khí,

Tù phạm cười tươi nở mặt mày.”

          Đây không chỉ là cảnh nắng sớm sinh động trong tù mà còn là ước mơ đổi thay, cải tạo toàn bộ cuộc sống – cái nhà ngục của con người – với một cảm xúc mạnh mẽ, một khí thế không gì ngăn cản được.

          Đã có ý kiến cho rằng thơ Hồ Chí Minh đầy trăng. Có lẽ phải nói thêm: thơ ông đầy ánh nắng sớm. Nếu như thơ cổ đã có nhiều ánh trăng thì ánh nắng sớm ở đây là một hình tượng rất mới mẻ. Thơ xưa chỉ thường nói “tịch dương”, “tà huy”, “lạc nhật”, “nhật mộ”… Phải liên hệ với các bài thơ Đêm dài, Đêm tối, Đêm mùa hạ, Gánh nước đêm… của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Từ Diễn Đồng, Trần Tuấn Khải… mới thấy cái nắng sớm ở đây gắn liền như thế nào với khát khao đổi đời và cảm quan về thời đại mới. Trước đó, trong bài Lời than vãn của Bà Trưng Trắc – Nguyễn Ái Quốc cũng đã một lần dùng hình ảnh mặt trời buổi sáng tượng trưng cho thời đại mới, chứng tỏ sự nhất quán trong cảm quan của ông. Điều này cũng chứng tỏ thời gian nghệ thuật là sự kéo dài của thời gian thực tại ở trong tâm tưởng và là sự tiếp nối, mở rộng giới hạn vốn có của thời gian nghệ thuật trong văn học thời đại trước.

          2. Một số người sành thơ thường có thói quen đánh giá tập thơ theo tài nghệ vận dụng thi liệu truyền thống và mức độ giống của nó so với các mẫu mực của người xưa. Nhiều ý kiến khác đã góp phần khẳng định tập thơ ở chỗ, bên cạnh phương thức tư duy nghệ thuật truyền thống, nó còn mở ra một cái gì rất mới, góp phần phá vỡ những giới hạn có sẵn trong thi ca trữ tình cổ điển.

          Ở đây có nhiều khía cạnh để bàn. Nhưng điều dễ thấy là thơ Nhật ký trong tù thiên về thể tài thơ ký sự, thơ sinh hoạt hằng ngày. Ai cũng biết quá nửa tập thơ viết về cái phần tồn tại rất vật chất của người tù: bắt rận, ghẻ lở, đói, cùm chân, ngủ cạnh hố xí, chia nước, rụng răng, mất gậy, đêm lạnh, giải đi đường, trượt ngã, ngồi xe than, nộp tiền đèn… Nếu nói đưa chất văn xuôi vào thơ là một hướng phát triển quan trọng của thơ ca thế giới thì Nhật ký trong tù quả là tập thơ Việt Nam thể hiện hướng này một cách độc đáo.

          Khác với quá trình phát triển của thơ một số nước phương Tây, hoặc Nga, từ chủ nghĩa cổ điển, trong thơ cổ chữ Hán không có đối lập tuyệt đối các đề tài cao cả với các đề tài sinh hoạt hằng ngày của nhân dân. Nhưng các hiện tượng như đói rách, hát rong, ăn xin, bán áo, bắt lính… mà các nhà thơ đồng tình với nhân dân ghi nhận như những điều “sở kiến”, chủ yếu lại giới hạn trong phạm vi các sự kiện gây tình cảm bi phẫn, thống thiết, ai oán. Nhật ký trong tù cũng có một số bài như vậy. Nhưng cái chính mà tập thơ mang lại không giản đơn là nhiều sự thực sinh hoạt hằng ngày hơn, mà là một cái nhìn mới đối với các hiện tượng “văn xuôi” hằng ngày. Xét về mặt này thì từ Nguyễn Trãi, thơ Nôm ta đã có con niềng niễng, mớ đòng đong, bè muống, lảnh mùng, cây núc nác, chú vằn, bà ngựa, tằm ôm lúc nhúc… và đó là sáng tạo đột xuất của một thiên tài đi trước thời đại. Song lịch sử văn học Việt Nam cũng từng chứng kiến “một sự vắng bóng rất lâu” những từ ngữ thông tục kiểu đó, có đến ba bốn trăm năm kể từ khi Nguyễn Trãi mất, để rồi đến Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương và nhất là từ phong trào thơ ca gắn liền với cuộc vận động giải phóng dân tộc khoảng mấy mươi năm đầu thế kỉ này chúng lại mới sống lại dần dần, quen thuộc và trở nên thi vị dần dần. Có điều, cũng cần chú ý là ở Hồ Xuân Hương, cái mới chủ yếu chỉ mới là đưa tiếng nôm na và cách nhìn dân gian vào thơ, còn các hình ảnh như con ốc nhồi, quả mít, hòn đá mài… thì căn bản vẫn chỉ là cái cớ để nhà thơ bộc lộ tình cảm. Thơ Nôm Nguyễn Khuyến, Tú Xương… sau này đã giàu lên với nhiều sự thực sinh hoạt của thời đại ấy, nhưng đặc sắc của họ chủ yếu là chế giễu, bỡn cợt, trào lộng. Vì vậy mà nhiều bài thơ của họ được gọi một cách xác đáng là thơ “trào phúng”. Chất trào phúng chủ yếu toát ra ở lời. Tiếp nối mạch thơ sinh hoạt, thế sự, nhưng lời thơ Nhật ký trong tù lời lẽ nào cũng chừng mực, nhã nhặn, hầu như không có chỗ nào dùng tiếng thô để châm chọc hay hạ thấp đối tượng, dầu là đối tượng xấu xa, bỉ ổi. Không phải do tác giả dùng chữ Hán, vì chữ Hán của Hồ Chí Minh phần nhiều là bạch thoại, khẩu ngữ, có xen cả tiếng lóng và tiếng nước ngoài. Chất châm biếm, “uymua” (humour) ở đây dường như chỉ toát ra từ bản chất của hiện tượng, nhằm thỏa mãi trí tuệ chứ không phải để cho sướng miệng:

“Hút thuốc nơi này cấm gắt gao

Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao;

Nó thì kéo tẩu tha hồ hút,

Anh hút, còng đây, tay ghé vào.”

(Cấm hút thuốc)

          Nếu thơ thường được hiểu là thể loại giàu chất tưởng tượng kỳ diệu nhất, thì nhiều bài thơ Nhật ký trong tù hầu như chẳng tưởng tượng gì cả. Trong các bài thơ rõ ràng là có tưởng tượng thì tưởng tượng cũng không bao giờ che lấp các sự thực trần trụi. Cảm hứng của nhà thơ là nói được nhiều sự thực đa dạng vốn là chứng nhân cho sự tồn tại và các quan hệ xã hội của con người. Bảy tám lần nói cái đói trong nhà tù với các biểu hiện khác nhau: đói kêu cha, đói sùi bọt hòa nước mắt, đói bụng réo gào, đói cồn cào, đói run bần bật dưới ánh điện, đói vì muộn giờ cơm, đói chết người này người khác. Bốn lần nói bị trói giải đi đường, tinh thần tác giả rất cao mà lúc nào ta cũng thấy người bị trói giật cánh khuỷu, trói bằng sợi thừng gai, trói bằng xích sắt, trói treo ngược đôi chân! Phương pháp của tác giả là để cho sự vật được nói lên bản chất của chúng. Cái gông dài trong thơ Cao Bá Quát là cái cớ để tác giả nói đến sự vô tình của cái gông và tâm trạng “không hổ thẹn” của một người tù như mình, tuy bị đọa đày nhưng vẫn giữ vững lẽ sống. Chính cách tư duy ấy làm cho các sự vật, dù là văn xuôi nhất, một khi vào thơ thì không còn giữ chất văn xuôi nữa. Cái cùm trong thơ Hồ Chí Minh thì lại khác, nó hiện lên không phải như một biểu tượng về một loại người nào đấy mà với tất cả tính chất cảm tính vật thể:

“Dữ tựa hung thần miệng chực nhai,

Đêm đêm há hốc nuốt chân người;

Mọi người bị nuốt chân bên phải,

Co duỗi còn chân bên trái thôi.”

(Cái cùm)

          Gặp quán cháo nghèo bên đường, rất dễ gây cảm xúc thê lương, cám cảnh cho người lữ khách. Nhưng cảm hứng bài thơ lại ở ý nghĩa vốn có của cái quán nghèo, thậm chí còn có chút hài hước vì sự giản dị quá đáng ấy:

“Ven đường nấp dưới bóng lùm cây,

Một túp lều tranh: “tiệm rượu” đây;

Nào món cháo hoa và muối trắng,

Đường xa, khách tạm nghỉ nơi này.”

(Hàng cháo)

          3. Nhiều người khẳng định cách cảm thụ trong thơ Hồ Chí Minh rất giản dị. Điều đó rất đúng, vì giản dị và sự thực luôn luôn đi đôi với nhau. Nhiều ý kiến cũng xác nhận sức mạnh tinh thần lớn lao của nhà thơ để có thể ung dung thưởng thức thiên nhiên trong nghịch cảnh. Quả là sức mạnh đó gắn liền với bản lĩnh nhận thức sự vật. Thơ ông thể hiện một kiểu tương quan cảnh – tình mới, trong đó tình ý xây dựng trên ý nghĩa khách quan của cảnh vật, sự kiện, chứ không phải theo kiểu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cũng không phải do một “tính năng động chủ quan” đặc biệt làm tác giả luôn thấy được cảnh vui. Chính ông nói: “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”, lại nói: “Cô quạnh đường xa vợi ít nhiều”.

          Chất văn xuôi và cách tư duy đó đã đổi mới hệ thống thơ Nhật ký trong tù, làm cho thơ ông khi theo đà truyền thống tự ví mình với rồng, với tiên… thì tiên và rồng đây cũng xuất hiện trong một khung cảnh rất “văn xuôi.” Đặc điểm này đòi hỏi phải cảm thụ tập thơ theo một cách khác.

          Nhiều nhà bình luận muốn tìm thấy “nghĩa bóng” quen thuộc trong thơ Hồ Chí Minh, trong khi đó thơ ông dường như chỉ muốn khám phá cái nghĩa đen đích thực của sự vật, giải phóng nó khỏi những ý niệm có trước hay liên tưởng truyền thống che phủ nó đi. Do đó mà khi nói cái chăn giấy thì thấy nó ấm hơn không có chăn; đi xe lửa ngồi toa than nhưng rốt cuộc vẫn “tuyệt” hơn đi bộ; ra khỏi nhà lao để tránh oanh tạc, nhưng mọi người khoan khoái vì được ra khỏi lao! Khuynh hướng này làm cho thơ Hồ Chí Minh giàu chất phân tích, thể hiện ở chỗ dùng nhiều hư từ chỉ nguyên nhân, so sánh, đối lập, nhiều thủ pháp tương phản loại trừ, thậm chí là nghịch lý, nhiều cách nói giới hạn xác định như kiểu “Cờ to đã hẳn là nên có – Cờ nhỏ dù sao thiếu được đâu”; “Rét đến cho than, tuy chẳng mấy”; “Ăn uống đôi khi cũng thạo đời”; “Phần nhiều do giáo dục mà nên”… Nhà thơ như muốn đối lập với loại thơ “khẩu khí”, trong đó bản thân sự “xuất khẩu” đã là một sự kiện tự nó có ý nghĩa. Nghe tiếng gà gáy, ông nhận xét: “Anh chỉ là một con gà bình thường” mà sáng sáng gáy lớn cho dân chúng tỉnh giấc thì “Công anh cũng không phải là xoàng”. Khác hẳn với ý thơ trong một bài từ: “Nhất xướng hùng kê thiên hạ bạch”. Cũng vậy, Cột cây số, Rụng mất một chiếc răng, Lính ngục đánh cắp chiếc gậy của ta… đều mang những ý nghĩa thông thường, biểu hiện một tình cảm dung dị của Bác Hồ đối với mọi người mọi vật, chứ không có gì là “khẩu khí” cả.

          Nhấn mạnh cách tư duy theo “nghĩa đen” của sự kiện và sự thực trong thơ Nhật ký trong tù không hề có ý nghĩa làm nghèo nội dung liên tưởng và tượng trưng của thơ Hồ Chí Minh. Tính đa nghĩa phong phú của các bài thơ nằm ở chỗ phát hiện sự vật trong các thế đối lập và đầy mâu thuẫn, giàu liên hệ của bản thân chúng. Và đó cũng là một phương diện của chất thơ, nếu hiểu chất thơ trong xu hướng vận động của tư duy thẩm mỹ nhằm hướng tới hiện đại.

          Những điều nói trên cho phép khẳng định Nhật ký trong tù chẳng những hay vì thể hiện sinh động một nhân cách lớn, một tinh thần cứng cỏi, tha thiết tình đời, vì có những tác phẩm sánh ngang với những mẫu mực thi ca cổ điển quá khứ, mà còn hay vì bên cạnh đó còn có hàng loạt bài thơ thể hiện một lối tư duy mới, xuất hiện như là những mẫu mực mới, đóng góp vào sự phát triển của tư duy nghệ thuật Việt Nam và làm phong phú cho vườn thơ nhiều hương sắc của chúng ta.


Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Mấy vấn đề phương pháp luận phê bình văn học Việt nam hiện đại

Lã Nguyên

Giáo sư Trần Đình Sử vừa cho ra mắt chuyên luận Phê bình văn học Việt Nam hiện đại: Lịch sử và chân dung (Nxb Đại học Sư phạm, 2023). Tôi tin sự ra đời của cuốn sách sẽ là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống học thuật của chúng ta. Có hai điểm đột phá cốt lõi thể hiện rõ nội dung khoa học của công trình nghiên cứu này.

Thứ nhất: tầm bao quát lịch sử theo cả chiều dài, lẫn bề rộng của nó. Ở thời điểm này, có thể dám chắc, chuyên luận của Trần Đình Sử là công trình đầu tiên và duy nhất dựng lại đầy đặn diện mạo của phê bình văn học Việt Nam xuyên suốt từ đầu thế kỉ XX cho tới tận bây giờ với một khối lượng tư liệu đồ sộ, bề bộn, bao gồm nhiều chuyên luận, tiểu luận, sách, bài báo, tuyển tập của hàng trăm nhà nghiên cứu, phê bình lớn nhỏ thuộc các thế hệ khác nhau. Trong cuốn sách này, lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại là lịch sử gần như của tất cả các trào lưu, khuynh hướng và phương pháp luận phê bình hiện đại, từ phê bình mac-xit đến phê bình khai sáng, từ phê bình xã hội học chính thống đến phê bình cấu trúc luận ngoại biên, từ phê bình ấn tượng đến phê bình khoa học, từ phê bình thi pháp học đến phê bình phân tâm học, kí hiệu học… Ở đó không chỉ có chân dung các nhà phê bình phát ngôn cho cho tư tưởng văn nghệ cách mạng như Hải Triều, Hoài Thanh (giai đoạn sau 1945), Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phương Lựu, mà còn có chân dung của Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Trương Tửu, Phan Ngọc, Đặng Tiến, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung và nhiều nhân vật khác thường bị bỏ quên. Phê bình văn học mac-xit chính thống, phê bình văn học thời Việt Nam cộng hòa giai đoạn 1954-1975, phê bình hải ngoại hòa chung vào một dòng chảy thành tiến trình phê bình văn học Việt Nam hiện đại trong cuốn sách của Trần Đình Sử. Công trình nghiên cứu của ông đã mở rộng các biên độ giá trị, làm cho phê bình văn học hiện đại Việt Nam thành một hiện tượng, một bộ phận của tiến trình nghiên cứu, phê bình văn học thế giới.

Thứ hai, và đây mới là điểm mấu chốt, đột phá trong quan niệm về phê bình và lịch sử phê bình văn học. Trong quan niệm của Trần Đinh Sử, phê bình văn học là hoạt động đa chức năng. Nó có nhiều thể loại, nhưng hình thức tồn tại quan trọng nhất của nó vẫn là diễn ngôn khoa học về văn học. Cho nên, trong chuyên luận của ông, lịch sử diễn ngôn khoa học về văn học là xương sống của lịch sử phê bình văn học. Khái niệm diễn ngôn ở đây được hiểu như một sự kiện giao tiếp giữa nhà phê bình với công chúng độc giả qua tác phẩm văn học. Theo nghĩa rộng, sự kiện là cái đã xẩy ra, nhưng không phải mọi cái đã xẩy ra đều trở thành sự kiện. Bởi vì, nhiều chuyện xẩy ra chỉ đơn thuần là sự lặp lại theo trình tự tự nhiên của một loại hiện tượng nào đó làm thành tiến trình trong thời gian. Lại có những cái xẩy ra như là sự lặp lại của những thứ đã thành chuẩn mực tạo nên trạng thái tĩnh tại trong không gian.  Khác với tiến trình và trạng thái, sự kiện là cái đột phá. Nó phá vỡ các chuẩn mực của trạng thái tĩnh tại, làm gián đoạn, đứt gẫy trình tự tự nhiên của tiến trình một cách có chủ ý, tạo ra một sự thực khác như một tổng thể hoàn toàn mới mẻ. Với ý nghĩa như thế, sự kiện nào cũng là sự phạm cấm (J.M. Lotman). Lại nữa, để trở thành sự kiện, sự thực về cái đã xẩy ra như sự đột phá cần được kích hoạt từ điểm nhìn giá trị của một nhân chứng nào đó, mà nếu thiếu nó, không một sự thực nào có thể trở thành sự kiện.

Trần Đình Sử trình bày lịch sử phê bình văn học trong tính sự kiện theo ý nghĩa như vậy. Trong câu chuyện về lịch sử phê bình của ông, các nhà phê chính là tác tố tạo nên các sự kiện phê bình ở từng giai đoạn lịch sử, còn nhà khoa học, tác giả công trình nghiên cứu, người trần thuật lịch sử là tác tố kích hoạt, tạo nghĩa cho các sự kiện ấy. Đây là điểm mấu chốt làm nên sự độc đáo về mặt cấu trúc, sự thống nhất về mặt nội dung trong chuyên luận của Trần Đình Sử.

Như phụ đề ghi ngoài bìa sách đã chỉ rõ, công trình nghiên cứu có hai nội dung chính: lịch sử và chân dung. Trần Đình Sử chia lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại thành 5 giai đoạn lớn theo trình tự biên niên: 1885-19311932-19451945-1975 và từ 1976 đến nay. Cơ sở để ông phân chia như thế không phải là các sự kiện chính trị – xã hội như nhiều tác giả khác vẫn làm, mà là sự vận động của các loại hình phê bình làm thành tiến trình lịch sử với quy luật nội tại của nó. Ứng với hình thái của văn học của thời kì chuyển đổi, phê bình ở giai đoạn 1885-1931 thuộc loại hình quá độ: một mặt, nó phát ngôn cho quan niệm văn học trung đại truyền thống, mặt khác, nó quảng bá các giá trị văn học Tây Âu nhằm mục đích khai sáng. Cùng với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, loại hình phê bình hiện đại thực sự hình thành và phát triển trong vòng trên dưới mười lăm năm, từ 1932 đến1945. Phê bình giai đoạn 1945-1975 rẽ theo hai hướng, làm thành hai loại hình: loại chính luận trực chiến định hướng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và loại định hướng mĩ học Âu – Mĩ hiện đại ở miền Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hòa từ 1954 đến 1975. Từ năm 1976 đến nay, phê bình chính luận xã hội trực chiến nhường một phần không gian văn hóa cho sự phát triển của loại hình phê bình theo định hướng khoa học.

Các loại hình phê bình nói trên không tồn tại biệt lập, vì mỗi loại hình như thế bao giờ cũng là kết quả tương tác diễn ngôn của hai loại hình nhà phê bình: một loại là tác tố thụ động làm nên trạng thái tĩnh tại của môi trường phê bình, loại kia là tác tố chủ động tạo nên sự đột phá nhằm thay đổi môi trường tĩnh tại ấy.  Chẳng hạn,  ở  giai đoạn chuyển đổi hệ hình văn học hồi đầu thế kỉ XX, có thể xếp Phạm Quỳnh, nhà phê bình khai sáng, vào loại tác tố chủ động, đồng thời, có thể xếp một loạt tác giả thuộc phái cựu học như  Phan Kế Bính, Phan Bội Châu, Lê Dư, Tản Đà, Dương Quảng Hàm, Ngô Đức Kế, Trương Vĩnh Kí, Bùi Kỉ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Ngọc, Lê Thước, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Trung Viên… vào loại tác tố thụ động. Nhưng từ năm 1932 về sau, khi Hoài Thanh, Hải Triều và nhiều nhà phê bình quay xung quanh họ bước lên vũ đài văn học như những nhân vật đột phá, thì toàn bộ phê bình của giới cựu học, kể cả Phạm Quỳnh, trở thành các nhân vật của hoàn cảnh cần phải đột phá. Ta hiểu vì sao, trong câu chuyện về lịch sử phê bình của Trần Đình Sử, thời nào cũng thấy có tranh luận. Ở một khía cạnh nào đó, lịch sử phê bình là lịch sử tranh đấu giành thế ưu thắng của nhiều loại quyền lực lời nói, mà không phải bao giờ cũng vì văn học. Lắm khi tranh đấu học thuật bị chuyển thành chiến tranh văn học, trong chiến tranh, vấn đề quan trọng bậc nhất là “đánh đổ”, là thắng – thua, cơ sở quyết định thắng – thua không hẳn là chân lí, mà là mạnh – yếu.

Từ chỗ đứng của hệ hình tri thức hôm nay, Trần Đình Sử nhìn lại một thế kỉ của phê bình văn học Việt Nam với những bước đi thăng trầm như vậy. Trong câu chuyện lịch sử của ông không chỉ có những sự thực đã diễn ra theo cách này, mà còn bao gồm cả những cơ hội bị bỏ lỡ và những sự kiện đáng lẽ “xẩy ra theo cách khác” (P. Ricoeur). Công trình nghiên cứu của ông không chỉ cung cấp tri thức lịch sử cho độc giả, mà còn khêu gợi để họ trăn trở, suy ngẫm về lịch sử.

Phần Chân dung tiếp nối phần Lịch sử một cách tự nhiên, nhất quán cao độ cả về cấu trúc, lẫn nội dung. Có 27 chân dung được khắc họa đầy dặn ở phần này. Nếu tính thêm 32 khuôn mặt được giới thiệu ở phần trước, thì tổng cộng, Trần Đình Sử đã kể cho bạn đọc nghe tới 59 câu chuyện về các nhà nghiên cứu, phê bình Việt Nam hiện đại. Với ông, viết về lịch sử phê bình là trình bày lịch sử các chân dung và, ngược lại, khắc họa chân dung nhà phê bình là vẽ ra diện mạo các chân dung lịch sử. Là tác giả của cuốn sách, ông không thể trực tiếp nói về hoạt động khoa học của bản thân mình. Cho nên ở đây vẫn thiếu một chân dung: chân dung tác giả. Về các chân dung được Trần Đình Sử khắc họa, tôi thấy có mấy điểm nổi bật như sau:

 Thứ nhất, khi khắc họa chân dung nhà phê bình, ông không quan tâm tới tác giả tiểu sử, hiểu theo nghĩa là con người cá nhân sống trong hiện thực ngoài văn bản. Đối tượng khắc họa chân dung của ông là hình tượng tác giả mà các công trình nghiên cứu, phê bình của họ là đại diện duy nhất.  Cho nên, đọc cuốn sách của ông, độc giả sẽ có dịp làm quen với một danh mục khá chi tiết, ghi lại khối lượng khổng lồ tác phẩm của 55 tác giả làm nên lịch sử phê bình Việt Nam trong già một thế kỉ qua.

Thứ hai, Trần Đình Sử chỉ dựng chân dung những tác giả tiêu biểu của các loại hình nhà phê bình trong tiến trình lịch sử. Chẳng hạn, có thể nhận ra diện mạo lịch sử của loại hình nhà phê bình cựu hoc có công khai sáng cho nền quốc văn ở thời kì chuyển đổi hình thái văn học qua chân dung Phạm Quỳnh. Hoặc chân dung Hoài Thanh, Hải Triều là những bức vẽ về loại hình nhà phê bình hiện đại. Ông khắc họa rất tài hai loại hình nhà phê bình: loại hành động và loại “phản hành động”, loại đột phá và loại tạo ra trạng thái tĩnh tại của môi trường phê bình.

Thứ ba, đằng sau mỗi bức chân dung mang tính loại hình như thế, bao giờ cũng có một thân phận khoa học của nhà phê bình. Chẳng hạn Phạm Quỳnh là nhà phê bình khai sáng trong thân phận người nô lệ dưới chế độ thực dân – nửa phong kiến. Thân phận nhà phê bình nào cũng vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa do cá nhân họ tạo ra. Tuy vậy, vẫn có những nhà phê bình, ví như Phan Ngọc, dũng cảm vượt lên trên nghịch cảnh, suốt đời hoạt động khoa học trong thân phận nhà nghiên cứu ngoại biên, nhưng cũng không ít nhà phê bình cho đến tận giờ vẫn là phiên bản của một khuôn mẫu xưa cũ.

Thứ tư, cũng như ở phần mô tả lịch sử, Trần Đình Sử đặt các nhà phê bình vào điểm nhìn từ hệ hình tri thức hiện tại để khắc họa chân dung. Từ điểm nhìn ấy, khu vực gián cách giữa người trần thuật lịch sử với nhân vật lịch sử hoàn toàn bị xóa bỏ. Điều này giúp Trần Đình Sử biến việc khắc họa chân dung các nhà khoa học thành quá trình phân tích, xác định giới hạn lịch sử của từng loại hình nhà phê bình. Qua điểm nhìn giá trị của ông, nhà phê bình khai sáng Phạm Quỳnh vẫn chưa vượt ra ngoài giới hạn của thế hệ cựu học, hoặc Đặng Thai Mai là nhà lí luận của văn học tuyên truyền. Ông viết bài về Lê Đình Kỵ với tiêu đề “sáng tạo và giới hạn”. Ông phát hiện Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu ở nửa đời đầu thì chống mĩ học phương Tây, đến nửa đời sau, họ lại ngả theo lí thuyết Âu – Mĩ. Ông chứng minh Phan Ngọc lúc nào cũng đề cao “thao tác luận”, nhưng phương pháp mà Phan Ngọc bướng bỉnh theo đuổi suốt đời thực ra là “cấu trúc luận”. Ông nhận xét văn dịch của Trương Chính “đạt được sự Việt hóa sâu sắc, tinh tế do vốn từ ngữ phong phú, hành văn uyển chuyển”, đồng thời ông chỉ ra hiểu biết chữ Hán của vị chuyên gia văn học cổ và văn học Trung Hoa rất cao ngạo này “có hạn chế”. Cho nên tôi cho rằng, phần xác định giới hạn lịch sử của các nhà phê bình qua chân dung học thuật của họ là nơi Trần Đình Sử có nhiều phát hiện mới mẻ, độc đáo, lí thú nhất.

Tư tưởng khoa học của nhà nghiên cứu không bao giờ là cái gì nhất thành bất biến. Cho nên Trần Đình Sử không dùng cách liệt kê giản đơn một số phẩm tính nào đấy để vẽ diện mạo trong trạng thái tĩnh tại của các nhà phê bình. Ông khắc họa chân dung từng người trong cuộc đời hoạt động khoa học sống động đầy thăng trầm của họ. Ông thấy Trần Thanh Mại chuyển “từ phê bình tiểu sử đến phê bình xã hội học”, Hoài Thanh chuyển “từ lập trường nghệ thuật đến lập trường cách mạng”. Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu chuyển “từ phê phán đến tiếp nhận” mĩ học Âu – Mĩ và Vương Trí Nhàn thì “dùng dằng giữa tản văn và phê bình văn học”. Qua cuốn sách của ông, tôi giật mình nhận ra rằng cuộc đời làm nghề phê bình của phần đông học giả ở nước ta hóa ra rất ngắn ngủi, vì không ít nhà phê bình giữa đường bỏ phê bình để làm việc khác.

Đọc xong Phê bình văn học Việt Nam hiện đại: Lịch sử và chân dung của Trần Đình Sử, độc giả sẽ thấy lịch sử phê bình hiện đại Việt Nam không phải tiến trình phát triển thẳng tuột, mà là tổng thể đầy phức tạp của cả những sự thực đã xẩy ra, lẫn những cơ hội bị bỏ lỡ, những sự kiện “đáng lẽ xẩy ra theo cách khác” với những bước đi thăng trầm của nó… Cuốn sách gợi mở nhiều vấn đề phương pháp luận nghiên cứu lịch sử phê bình văn học. Đồng thời, độc giả cũng khó tránh phải cảm khái, vì hóa ra nghề phê bình văn học chẳng phải là cái gì hấp dẫn đến mức buộc ai cũng mãn kiếp thủy chung với nó. Ở ta, những người dành trọn đời mình cho nghiệp phê bình như Hoài Thanh có thể tính được trên đầu ngón tay.  Nhưng cuốn sách của Trần Đình Sử, ở cả hai phần lịch sử và chân dung, được khép lại bằng câu chuyện về loại hình phê bình theo định hướng khoa học của thời “đổi mới”, hòa nhập với thế giới. Đó là kết thúc có hậu, nó truyền cho người đọc niềm tin vào kho kinh nghiệm mà lịch sử phê bình văn học hiện đại Việt Nam đã tích lũy được trong suốt chiều dài một thế kỉ qua.

(Văn nghệ số 47/2023)

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

VĂN BẢN – LIÊN VĂN BẢN – LÍ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN

G. Kosikov, Lã Nguyên dịch

Thuật  ngữ  liên  văn  bản  xuất hiện  cách đây chưa lâu.  Lần đầu tiên nó được J. Kristeva sử dụng trong một tham luận về sáng tác của M.M. Bakhtin đọc tại xêmina do R. Barthes chủ trì vào mùa thu năm 1966. Mùa xuân năm 1967, tham luận được công bố dưới dạng một bài báo có nhan đề: Bakhtin, lời nói, đối thoại và tiểu thuyết[1]. Còn một loạt công trình khác của Kristeva liên quan trực tiếp tới bài báo này, ví như “Lời nói đầu” viết cho bản dịch sang tiếng Pháp cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski (Một nền thi pháp học sụp đổ, 1970)[2], hoặc tuyển tập Semeiotikē. Những công trình nghiên cứu lí thuyết biểu nghĩa (1969)[3] và cuốn Văn bản tiểu thuyết (1970)[4].

Dù nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhóm “Tel Quel” đứng đầu là Philippe Sollers[5], lí thuyết liên văn bản của Kristeva, một cô gái Bungaria mới 25 tuổi, được giới trí thức Pháp ở Paris thời ấy tiếp nhận hết sức dè dặt. Sau này, phải nhờ vào uy tín của R. Barthes, người hết lòng ủng hộ và phát triển một cách độc đáo – trong cuốn S/Z (1970)[6], và những bài báo, tiểu luận, ví như Từ tác phẩm đến văn bản (1971)[7]Văn bản (lí luận văn bản) (1973)[8]Khoái cảm văn bản (1973)[9] của ông – những luận điểm cơ bản của lí thuyết liên văn bản mới được cấp “quyền công dân”, nhập vào đời sống khoa học, trở thành đối tượng phân tích và giải thích rộng rãi.

Trước tiên, phải nhấn mạnh, việc phân tích và diễn giải nguyên tắc “đối thoại”[10] của Bakhtin được Kristeva thực hiện dưới ánh sáng “triết học đa bội” của chủ nghĩa hậu cấu trúc (J. Derrida, G. Deleuze…), cho nên cần chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa triết học này và triết học của M.M. Bakhtin.

TỪ LIÊN CHỦ THỂ TỚI LIÊN VĂN BẢN

Luận điểm xuất phát của M.M. Bakhtin là thế này: “Từ trong bản chất, lời nói mang tính đối thoại” , “giao tiếp đối thoại chính là môi trường đích thực của đời sống ngôn ngữ” (tr.205)[11]. Điều này trước hết có nghĩa, mọi phát ngôn bằng lời, không có ngoại lệ, đều là “những quan điểm của các chủ thể khác nhau được biểu hiện trong lời nói”, vì các quan điểm ấy đều thuộc về những “ngữ cảnh” và “nhãn quan” giá trị – xã hội trái ngược, rất khác nhau và đôi khi thù nghịch với nhau, nên bất kì phát ngôn nào của một chủ thể về đối tượng cũng xuất hiện như là kết quả tiếp nhận tích cực và phản ứng cũng tích cực như thế đối với các phát ngôn khác về chính đối tượng ấy. “Lời” nào cũng “tính đến” các lời nói của người khác, nó được kiến tạo với sự “cân nhắc” các lời nói của người khác ấy và bản thân thường “co dúm lại trước sự hiện diện hoặc trước sự linh cảm về lời nói của người khác, về câu trả lời, về sự phản đối” (tr.219), nói cách khác, lời nói nào cũng xuất hiện trong quá trình “định hướng qua lại” đầy căng thẳng với  những quan điểm của người khác, những phát ngôn của người khác, và sự định hướng qua lại ấy được phân bố trên một khoảng âm vực rộng lớn giữa “tán thành” tuyệt đối và cương quyết “phản đối” trước “lời nói của người khác”, khoảng âm vực bao gồm cả “hoài nghi”, “dằn vặt”, “giễu nhại”, “cười cợt”, “chế nhạo”…

Có thể tạm chia một cách ước lệ các “quan hệ đối thoại”[12] trong Những vấn đề thi pháp Dostoevski thành hai hình thức cơ bản: “đối thoại” sinh tồn và “đa thanh phức điệu” .

Khi xác định đặc điểm của đối thoại, M. Bakhtin thường đặc biệt coi trọng, đưa lên bình diện thứ nhất các khái niệm “tâm hồn”, “ý thức”, “tự nhận thức” của cá nhân, tức là của “con người nội tâm”. Đặc điểm cơ bản của “con người nội tâm” là sự tự do của nó: nó “không phải là một đại lượng hữu hạn, xác định để từ đấy có thể kiến tạo các toan tính chặt chẽ nào đó; con người hoàn toàn tự do và vì thế nó có thể phá bỏ mọi quy luật trói buộc nó”. “Con người không bao giờ đồng nhất với bản thân”, vì thế “cuộc sống đích thực của cá nhân” luôn luôn diễn ra ở “cái điểm không đồng nhất ấy của con người với bản thân mình, ở cái điểm vượt ra ngoài giới hạn của tất cả những gì mà nó chỉ tựa như một tồn tại bên ngoài, thứ tồn tại có thể xem xét, xác định, tiên đoán “vắng mặt” nó, ngoài ý chí của nó” (tr. 70). Bởi thế, cá nhân con người là “bất định” – phi xác quyết (tr. 73)[13], thể hiện tính “không hoàn kết”, một thuộc tính khiến không thể “khách thể hoá”, “đồ vật hoá” theo bất kì cách thức nào.

Đồng thời, vì cá nhân bao giờ cũng tồn tại trong môi trường của những tập hợp người bao bọc xung quanh, nên hy vọng sâu thẳm của nó là làm thế nào để trực tiếp tự  “bộc lộ” trước những người khác, được người khác “thừa nhận” và “khẳng định” tự do của mình trong hành vi đối thoại đích thực như một bản thể: “Phải thâm nhập bằng đối thoại thì mới hiểu được đời sống cá nhân, đó là kiểu thâm nhập mà tự bản thân cá nhân sẽ bộc lộ một cách tự do và có trách nhiệm” (tr. 70).

Nhưng mâu thuẫn là ở chỗ, ở cấp độ sinh tồn (trong thực tiễn đời sống), ý thức của người khác bao giờ cũng có sức mạnh và quyền lực được vật chất hoá mà sự tự do tự nhận thức của cá nhân luôn luôn chống lại. Hơn nữa, ngược lại, người khác lại muốn “ngoại hình hoá”, “hoàn tất” nó để khẳng định và thừa nhận sự tự do vô hạn của “con người nội tâm”; về phía mình, con người “nội tâm”,  tìm mọi cách nổi loạn để cưỡng lại việc “ngoại hình hoá” như thế, bởi vì nó cảm nhận một cách sống động “sự không hoàn kết nội tâm của mình: “Chừng nào con người còn sống, nó sẽ sống bằng con người vẫn chưa hoàn kết và vẫn chưa nói lời cuối cùng của mình” (tr. 69).

Ta hiểu vì sao, ở cấp độ sinh tồn, theo tinh thần của Bakhtin, đối thoại là “cuộc đấu tranh nảy lửa” giữa “tôi” và “người khác”. Do không một ai có thể sống thiếu sự “thừa nhận” và “khẳng định” của người khác, nên cá nhân phải tự nguyện kéo “cái nhìn” của “người khác” về phía mình; nhưng tuỳ vào mức độ “ý chí của người khác”, “sự phán xét” của người khác mà cái nhìn ấy chứa đựng trong bản thân, chính cá nhân kia phải “nới lỏng” và thực hiện những ý đồ đầy tuyệt vọng nhằm tránh khỏi sự khách quan hoá: lời của nó bắt đầu “quằn quại và vỡ vụn” dưới ảnh hưởng của lời người khác, bắt đầu cãi lại, “phỏng đoán”, chống đỡ lại nó, biến thành muôn vàn sự “cân nhắc” và những “kẽ nứt” bất tận… (tr. 254 – 260) – miễn sao bảo vệ được sự “độc lập” của mình, duy trì được cho bản thân “lời nói cuối cùng về mình, lời tự ý thức của mình để nó trở thành không phải là cái như nó vốn có” (tr. 63)[14]. Nói cách khác, trong khi tìm kiếm ở “người khác” kẻ đồng minh cho phép chủ thể bộc lộ một cách đầy đủ, chủ thể chỉ bắt gặp trong đó kẻ thù tự do của mình, một kẻ thù mà nó chỉ có thể tồn tại trong một quan hệ “đối đầu” nghiệt ngã.

Mặt khác, vốn không đủ sức chạm tới “sự thực nội tâm” cá nhân, “người khác” không thể đạt được mục đích của mình: áp đặt cho cá nhân sự “phán quyết vắng mặt”, chiếm lĩnh nó (“không thể chiếm lĩnh con người nội tâm, không thể nhìn thấy và thấu hiểu nó bằng cách biến nó thành đối tượng phân tích bàng quan, trung tính, không thể chiếm lĩnh được nó bằng cách hoà lẫn vào nó, cảm nhận nó” (tr. 280), bởi vì, “tôi” thường xuyên cảm nhận một cách sinh động “khả năng lớn lên từ bên trong của mình và sẽ  biến thành cái không đúng như thế trước mọi phán quyết xong xuôi và ngoại hình hoá” (tr. 69). Mặt khác, bản thân “con người nội tâm” cũng cương quyết cự tuyệt “sự lệ thuộc vào ý thức của người khác”, nó tuyên bố “sự thù địch gay gắt với loại ý thức ấy và không chấp nhận sự phán quyết của nó” (tr. 257); con người ấy thường xuyên đập vỡ “cái vỏ hoàn kết và tựa như chết cứng của những lời nói lạ về nó” (tr. 69) và kì vọng sẽ “tự mình xoay xoả”, tự mình “đục cho chính bản thân mình một con đường” “lách vào tâm hồn mình” (tr. 258).

“Sơ đồ đối thoại của Dostoevski cực kì đơn giản: đối lập giữa con người và con người như là sự đối lập giữa “tôi” và “người khác”” (theo công thức: “tôi thì chỉ có một mình, còn họ là tất cả”). Kết quả của sự đối lập như thế là thế giới bị chẻ ra thành lưỡng diện: ở bên này là “tôi”, bên kia là “họ”, có nghĩa, tất cả những người khác, bất kể họ là ai, không có ngoại lệ” (tr. 281). Con người theo quan niệm của Bakhtin không có khả năng thâm nhập vào người khác: nếu người khác không có khả năng “đồ vật hoá” “con người nội tâm”, thì bản thân con người nội tâm” cũng không đủ sức nắm bắt “sự đóng kín” và “phi xác quyết” của mình với sự trợ giúp của cái người khác ấy.

“Sự định hướng qua lại” mang tính đối thoại của các cá nhân không dẫn tới sự thay đổi hay đột biến trong nội tâm của họ; ngược lại, nhiệm vụ của “con người nội tâm” là “làm thế nào để nhất quyết bảo vệ bằng được lời nói cuối cùng cho mình. Lời nói cuối cùng ấy phải thể hiện sự độc lập tuyệt đối của nhân vật trước cái nhìn và lời nói của người khác, thể hiện sự dửng dưng hoàn toàn của nó với ý kiến của người khác và sự đánh giá của người khác” (tr. 256). Điều đó có nghĩa là: việc tiếp xúc căng thẳng giữa sự tự ý thức không hoàn kết của “tôi” và ý thức hoàn kết của “người khác” tất yếu biến thành cuộc “xung đột đối thoại vô vọng, không lối thoát” (tr. 257).

Bởi thế, nếu vấn đề đối thoại được Bakhtin giải quyết bằng chìa khoá triết học sinh tồn, thì vấn đề phức điệu được ông giải quyết bằng chìa khoá của “triết học đa bội”.

Thứ nhất, ở đây cá nhân không phải là một nhân cách “chưa hoàn kết”, mà, ngược lại, là một nhân cách “toàn vẹn”, như một đại diện cho một “lập trường nhất quán của cá nhân”, một “quan điểm nhất quán”, hoặc “chân lí về thế giới”[15], được phản ánh trong “giọng nói sống động của một con người nhất quán” (xem: Tlđd, tr. 14, 24, 106, 110).

Thứ hai, tất cả các giọng nói – điểm nhìn đều thuộc những “ngữ cảnh” xã hội, hoặc các “nhãn quan giá trị” khác nhau về chất. Một mặt, tất cả các nhãn quan giá trị ấy đều không có bất kì một nguồn gốc chung nào (do thuộc về những hệ tính khác nhau, chúng hoàn toàn “xa lạ” với nhau)[16], mặt khác, ngay từ đầu, chúng đã có “khuynh hướng khác nhau”, nên giữa chúng không có một mục đích chung nào cả: “chúng hoàn toàn độc lập”, “xung đột với nhau” và, đương nhiên, ‘không tương hợp với nhau” – chúng “không đồng nhất” và hoàn toàn “không hoà hợp”. Theo M.M. Bakhtin, phức điệu không đơn giản là “tính đa bội của những giọng nói và ý thức độc lập, không hoà hợp”, mà là “tính đa bội của những trung tâm – ý thức không thể quy về một mẫu số tư tưởng hệ” (tr. 10, 23).

Thiếu “mẫu số chung”, tức là thiếu một trung tâm chung để những “trung tâm – ý thức” cá nhân và rời rạc hướng về,- đó là đặc điểm tối quan trọng thứ ba của thế giới phức điệu của Bakhtin. Ở đây, những quan điểm khác nhau không nằm trong quá trình cùng tìm kiếm chân lí, chúng không có nhu cầu “đời đời cùng – hân hoan, cùng – chiêm nghiệm, cùng – đồng thuận và chúng cũng chẳng bị giày vò bởi “hoà âm của những giọng nói không hoà hợp” (tr. 280, 39).

Ngược lại, các “quan hệ định hướng qua lại một cách căng thẳng” mà những “cơ chế ngữ nghĩa khác nhau” tham gia vào đó tuyệt nhiên không phải là “phức điệu của những giọng nói dung hoà với nhau”, mà là “phức điệu của những giọng nói tranh đấu và phân rẽ tự bên trong” (tr. 278). “Xung đột” và “đấu tranh” – đó là những gì “thắt buộc” và  “nối kết” các “cơ chế ngữ nghĩa”, dẫn tới sự “thống nhất của cái xung khắc”, không cho phép thế giới phức điệu phân rã.

M.M. Bakhtin phân biệt hai dạng đấu tranh ngôn từ – tư tưởng hệ diễn ra giữa “ngữ cảnh xã hội” và “nhãn quan giá trị: năng động và tĩnh tại.

Nếu trong công trình Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ, cái được đưa lên bình diện thứ nhất là “thực tiễn giao tiếp xã hội sinh động”, nơi mỗi lời của người nói tự nó chỉ có “sự đồng nhất với bản thân và tính ổn định nhất thời”, lúc nào cũng vấp phải “lời đối lập”, vì thế nó bị cuốn vào dòng “tương tác ngôn từ” bất tận bị chia vụn bởi “những mâu thuẫn sinh động”, dòng tương tác ngôn từ này kéo dài giống như một “quá trình hình thành liên tục”, không có hồi kết, không có sự hoà giải, hay sự yên lòng[17], thì trong cuốn sách về Dostoevski, trọng tâm lại được dồn vào “đối lập” tĩnh tại ở “các cơ chế ngữ nghĩa” của lời nói đa dạng, những cơ chế mà về cơ bản, không một cơ chế nào trong số đó có khả năng thay đổi hoặc làm phong phú thêm dẫu chỉ là cho “nhãn quan giá trị” của người khác, nhờ đó làm biến dạng chuỗi ngữ nghĩa liên tục của thế giới phức điệu. Vì trong thế giới ấy, “chất liệu ngữ nghĩa bao giờ cũng được cung cấp tất thảy, tức thời cho ý thức nhân vật, hơn nữa, nó “được cung cấp dưới dạng các thiết chế ngữ nghĩa nhân bản, dưới dạng những giọng nói, và mọi sự chỉ tập trung vào sự lựa chọn giữa chúng với nhau”,  sau nữa, vì “cuộc đấu tranh tư tưởng hệ trong nội tâm mà nhân vật tiến hành là cuộc đấu tranh để lựa chọn những khả năng ngữ nghĩa hiện hữu mà số lượng của chúng vẫn giữ nguyên, gần như không thay đổi”, cho nên ở đây “không có sự hình thành tư tưởng” (tr. 266)[18], không có “sự hình thành mang tính biện chứng một tinh thần thống nhất, nói chung, không có sự hình thành, không có sự lớn lên” (tr. 33), mà chỉ có sự cộng tồn không gian[19] của “những mâu thuẫn” và “những đối lập” mà về nguyên tắc, không thể “xoá bỏ” trong một hợp đề biện chứng, cũng không thể “thoả hiệp”, không thể “giải quyết”, kết quả là, “phức điệu” hoá ra hoàn toàn không đơn giản là “đa thanh”, mà là sự “đa thanh”, “sự đa bội của những ý thức không thể dung hoà” dẫn tới “cuộc tranh luận bất tận và vô vọng” (tr. 34, 39).

Ở những nét cơ bản, quan điểm đối thoại – phức điệu của Bakhtin là như vậy. Lí thuyết liên văn bản của J, Kristeva xuất phát từ đó, và ở đây, chí ít là có 3 điểm, bà đã “bóp méo” quan điểm của M.M. Bakhtin.

Thứ nhất, Kristeva đã làm thay đổi hoàn toàn – theo tinh thần phân tâm học Freud – khái niệm “người khác” của Bakhtin. Bà giải thích: “Tôi có cảm tưởng, rằng thoạt đầu, “người khác” của Bakhtin cũng chính là “người khác” của ý thức theo triết học Hegel, chứ không phải là “người khác” lưỡng phân của phân tâm học. Về phía mình, chính tôi muốn nghe thấy điều đó như một chiều kích mở ra một hiện thực khác bên trong hiện thực của ý thức, chứ không phải như một “người khác” “giữa các cá thể”. Tức là tôi muốn xoay chuyển “Bakhtin của chủ nghĩa Hegel” để biến ông thành “Bakhtin của chủ nghĩa Freud””[20].

Quả thực, chính ý thức (chứ không phải cái vô thức[21]) luôn nằm ở trung tâm suy ngẫm của Bakhtin, người xuất phát từ quan niệm về sự thống nhất giữa ý thức và sự tự nhận thức của chủ thể tự do và mang trách nhiệm đạo đức giống như là đại diện của một “quan điểm nhất quán” và “giọng nói không thể chia cắt của tư tưởng”, trong khi đó, Kristeva lại đặc biệt hứng thú với những tư tưởng của chủ nghĩa Marx-Freud luận, với bà điều tối quan trọng là phải đặt vấn đề hoài nghi trước tính hợp pháp của những khái niệm “duy tâm”, kiểu như “ý thức”, hoặc, nhất là, “tâm hồn”. Bà tập trung chú ý vào các tiến trình vô thức điều khiển thế giới ngôn từ – tư tưởng hệ. Với Kristeva, “cái khác” có chức năng khám phá một “sàn diễn khác”, một “kiểu khác của lôgic” – khám phá cái vô thức”[22], chứ không phải là cá nhân khác.

Thứ hai, từ đây, sự xuất hiện của bản thân tư tưởng liên văn bản và tính liên văn bản là điều dễ hiểu. Nếu với Bakhtin, đối thoại phức điệu bao giờ cũng diễn ra đích thị ở giữa những chủ thể tự chủ, những chủ thể có “hạt nhân” cá nhân không thể vắt kiệt, không thể phân rã, thì với Kristeva, giữa các cấp độ lời nói – tư tưởng hệ (các văn bản, các diễn ngôn) đặt bên ngoài cá nhân, phi cá nhân – trên cá nhân và tiền cá nhân –, những cấp độ chỉ “gặp gỡ”, “bện kết” với nhau trong những cá nhân riêng lẻ, mà đến lượt mình, chúng té ra chẳng phải là gì khác ngoài những văn bản di động nằm trong quá trình “trao đổi lẫn nhau”, “phân bổ qua lại”: “trục hoành (chủ thể – người nhận) và trục tung ( văn bản – ngữ cảnh) cuối cùng trùng khớp với nhau khi tìm thấy điều cơ bản: mỗi lời (văn bản) đều là sự giao cắt của hai lời (hai văn bản), nơi còn có thể đọc thêm ít nhất một lời nữa (văn bản)”[23]. Nếu đối thoại phức điệu của Bakhtin là tính “liên chủ thể”[24] theo ý nghĩa chính xác của từ ấy, thì lôgic về tính liên văn bản của Kristeva từ trong bản chất của nó lại cần tới “cái chết của chủ thể”, nếu cá nhân với tư cách là “chủ thể của lối viết” tự tan rã do đánh mất “hạt nhân” quen thuộc và, cùng với nó, mọi sự tự trị. Ta hiểu vì sao, tính liên văn bản của Kristeva không bổ sung, mà có nhiệm vụ lấn át, thay thế tính liên chủ thể: “Mọi văn bản đều được tổ chức như một bức khảm bằng những trích dẫn, mọi văn bản đều là sự hấp thụ và biến đổi một văn bản khác nào đó. Bởi thế, khái niệm tính liên văn bản đã thế chỗ cho khái niệm tính liên chủ thể, và hoá ra, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ bị đọc theo kiểu nước đôi ít nhất[25].

Bởi vậy, ranh giới phân biệt đối thoại liên cá nhân của Bakhtin và đối thoại liên văn bản của Kristeva là ranh giới giữa những nguyên tắc của “nhân cách luận” (personnalisme), nguồn cảm hứng của tác giả Những vấn đề thi pháp Dostoevski, và những tư tưởng của chủ nghĩa Marx – Freud luận được Kristeva lấy làm nền móng cho những công trình như Bakhtin, ngôn từ, đối thoại và tiểu thuyếtMột nền thi pháp học sụp đổ

Thứ ba, cuối cùng, cảm hứng nổi loạn thấm đẫm chương IV (“Những đặc điểm thể loại và kết cấu – truyện kể trong những tác phẩm của Dostoevski”) cuốn sách của M.M. Bakhtin bị Kristeva trộn lẫn một cách cố ý với phương diện tư tưởng làm nền móng cho chuyên luận về “văn hoá carnaval” của ông .

Như được mô tả trong chương IV của cuốn sách, bằng cách thể hiện “tính tất yếu cùng với tính sáng tạo của sự thay đổi – làm mới, thể hiện tính vui nhộn tương đối của mọi chế độ và trật tự, mọi quyền lực và vị thế (đẳng cấp), carnaval xoá bỏ triệt để mọi “luật lệ, kị huý và chế tài”, nhưng xoá bỏ chủ yếu là để giải phóng ý thức con người – giải phóng nó thoát khỏi quyền lực của truyền thống và quyền uy, không cho phép tư tưởng dừng lại và đông cứng trong sự nghiêm túc đơn điệu, trong “tính xác định và đơn nghĩa bỉ ổi”, “không cho phép tuyệt đối hoá bất kì một điểm nhìn nào, một cực nào của đời sống và bằng cách ấy nó tìm thấy bản chất hai mặt và không hoàn kết của con người và tư tưởng con người” (tr. 140, 138, 149, 186, 188).

Vì thế, tiếng cười “lưỡng diện” trong chương IV cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski có “ý nghĩa thanh tẩy”, nó nhắm tới sự tháo bỏ gông xiềng cho trí tuệ con người, và ở đây, Bakhtin cần “carnaval hoá đối thoại” là để chống lại chủ nghĩa độc thoại có tham vọng “chiếm lĩnh chân lí hoàn bị”, để đối lập chủ nghĩa độc thoại với “phương pháp khám phá chân lí bằng đối thoại của Socrates”, thứ chân lí “không sinh ra và không cư trú trong đầu của con người riêng lẻ, mà sinh ra giữa những con người cùng nhau tìm kiếm chân lí trong quá trình giao tiếp đối thoại của họ” (tr. 124). Ngược lại, carnaval hoá liên văn bản mà Kristeva khởi xướng lại chủ yếu nhắm vào mục đích giải thoát khỏi chân lí.

Khi không biết tới cả thực thể, cả nhân quả, lẫn sự đồng nhất, không nhìn thấy bất kì một cấp độ lôgic hay giá trị nào, khi tầm thường hoá tất cả cái cao cả và linh thiêng, kiến tạo trên nguyên tắc bất tuân triệt để, cự tuyệt thanh lọc và huỷ diệt đời sống cá nhân để niềm hân hoan tập thể được giải thoát, theo Kristeva, nhân tố carnaval-minippeé (“cách mạng”, ‘hư vô” và “khốc hại”) chỉ là “lễ hội của sự nghiệt ngã”, là ““niềm vui vĩnh hằng của sự hình thành” đang tan biến trong hành vi ở ngay khoảnh khắc này”[26].

Một trong những luận điểm then chốt của M.M. Bakhtin là thế này: “Chẳng còn bất kì một sự rốt ráo nào trên thế giới chưa hề xẩy ra, lời cuối cùng của thế giới và về thế giới vẫn chưa được nói ra, thế giới đã được khai mở và được giải phóng, nhưng tất cả vẫn còn ở phía trước và đời đời ở phía trước” (tr. 187).  Một cái nhìn thế giới như thế chỉ có thể có khi lôi cuốn được tất cả những “điểm nhìn” có thể có, mọi “nhãn quan giá trị” và “tư tưởng hệ” – cùng với sự hạn hẹp tất yếu, với định kiến và niềm say mê trước cái hiển nhiên – vào một dòng chảy vô tiền khoáng hậu của sự hình thành lịch sử, nơi những hệ tư tưởng ấy phải tham gia vào một cuộc “tranh đấu” đời đời.

Nếu với M.M. Bakhtin, hiện thân của cuộc “tranh luận triền miên và vô vọng” chính là tiểu thuyết phức điệu, nơi tác giả không chỉ hành động như “người tổ chức”, mà chủ yếu còn xuất hiện như người “tham gia” đối thoại bình đẳng, người không chừa lại phía sau cả “sự thừa dư ngữ nghĩa thiết yếu”, lẫn lời phán quyết cuối cùng  có khả năng đặt dấu chấm hết (tr. 85 – 86), thì với Kristeva, hình ảnh và kiểu mẫu của tiểu thuyết liên văn bản là tác phẩm mà ở đó tác giả cố ý đóng vai trò đặc biệt của người viết kịch bản có nhiệm vụ tổ chức mối xung đột giữa vô số các hệ tư tưởng (“các điểm nhìn”, “các giọng nói”, “các văn bản”) mâu thuẫn với nhau, không thể phân chia thành cấp độ, nhưng bản thân anh ta không tham gia vào xung đột ấy, bởi vì anh ta đứng ngoài mọi hệ tư tưởng, vô luận đó là tư tưởng như thế nào. Người viết kịch bản chỉ là người cáo giác các hệ tư tưởng ấy theo kiểu carnaval: “Văn bản (phức điệu) không có hệ tư tưởng riêng, vì nó không có chủ thể (tư tưởng hệ). Đó là một kiến tạo đặc biệt – là khu vực mà các hệ tư tưởng khác nhau xông ra để vắt kiệt sức nhau trong một cuộc đối đầu”[27].

Dù có những điểm khác nhau như đã chỉ ra ở trên, rõ ràng, cả tổ hợp tư tưởng trong Những vấn đề thi pháp Dostoevski (thực chất là tác phẩm của M.M. Bakhtin nói chung), lẫn tư tưởng hệ ở những công trình của Kristeva, như Bakhtin, ngôn từ, đối thoại và tiểu thuyết, Một nền thi pháp học sụp đổ, đã vượt ra ngoài phạm vi của song đề nền tảng  – ra ngoài xung đột giữa nguyên tắc bản thể luận về sự thống nhất của tồn tại và ý thức, ở phía này, và nhu cầu về tính đa trị thực thể luận, ở phía kia.

Bakhtin viết rằng, thực ra, nếu xuất phát từ yêu cầu “nhất nguyên luận của tồn tại” và, ứng với nó, nguyên tắc “độc thoại của ý thức”, với tính thiết yếu là sự thống nhất giữa một ý thức, một tinh thần, một “trung tâm – đại diện” (tựa như “ý thức nói chung” của Kant, “cái tôi tuyệt đối” của Fichte, hay “tinh thần tuyệt đối” của Hegel),- trung tâm có thể bao chứa được toàn bộ tính đa trị của ý thức trực quan con người, thì những ý thức như thế sẽ lập tức biến thành hiện tượng phụ (épiphénomène). “Tính đa trị như thế của các ý thức, từ quan điểm “ý thức nói chung”, là ngẫu nhiên, có thể nói, là thái quá. Tất cả những gì quan trọng, những gì đích đáng trong đó đều nhập vào ngữ cảnh của một “ý thức nói chung” và đã bị tước bỏ tính cá nhân. <…> Từ quan điểm của chân lí, không có ý thức cá nhân. <…> Mọi phán đoán đích thực đều không được định hình phía sau cá nhân, nó chỉ làm thoả mãn một ngữ cảnh mang tính hệ thống – độc điệu duy nhất nào đó. Chỉ mỗi sai lầm là cá thể hoá. Tất cả những gì mang tính chân lí đều được chứa trong phạm vi của một ý thức. <…> Trong lí tưởng, một ý thứcmột tiếng nói như nhau hoàn toàn đủ để làm đầy nhận thức; không cần và không có lí do để cần phải có đa nguyên ý thức” (tr. 91 -92).

Ngược lại, nếu muốn duy trì và bảo vệ quyền tự trị và “tính không hoàn kết tự  do” (tr. 97) của các ý thức cá nhân, duy trì và bảo vệ khả năng của chúng trong việc tham gia vào các quan hệ phức điệu, thì chỉ có thể làm điều đó bằng một con đường – con đường thủ tiêu ý thức thứ ba, ý thức bao chứa nguyên tắc độc thoại” (tr. 24) – ý thức – trung tâm, và điều đó đã xẩy ra trong cuốn sách về Dostoevski.

TỪ TRIẾT HỌC THỐNG NHẤT ĐẾN TRIẾT HỌC ĐA BỘI

Rõ ràng, song đề của Bakhtin chẳng phải gì khác, mà chính là phiên bản của cặp đối lập triết học cơ bản giữa một (duy nhất) và nhiều, vốn có nguồn gốc từ thời tiền Soctates (“hệ Parménide”/“hệ  Héraclite”). Nói theo ngôn ngữ hiện đại, cặp đối lập này được biết tới như là cuộc tranh luận giữa “siêu hình học về sự thống nhất” (“siêu hình học về sự hiện tồn”), ở phía này, và “siêu hình học đa bội” (“siêu hình học về sự khác biệt”), ở phía kia.

Triết học thống nhất xuất phát từ sự thừa nhận có một chủ thể Siêu việt khởi nguyên nào đó về mặt bản thể (Trung tâm, Tuyệt đối, Nguyên lí (khởi nguyên), Nguyên tắc (khởi nguyên), Chân lí, Đạo, Thần ngôn, hay theo thuật ngữ của  J. Derrida, “cái biểu đạt Siêu việt”). Trung tâm Siêu việt này là nền móng khởi thuỷ của thế giới, nó đơn giản tuyệt đối, đồng thời tuyệt đối bao trùm tất thảy. Tự bản thân không do cái đa bội tạo ra, trung tâm ấy  là nguồn cội sinh thành của cái đa bội (chẳng hạn, khi đã thừa nhận tư tưởng quảng tính là “nguyên tắc khởi thuỷ” của đường hình học như cái chỉnh thể, thì phải đồng ý tiếp, rằng đường là cái có trước, cái khởi thuỷ so với các điểm mà nó chạy qua: đường hiện ra không phải như sản phẩm cộng gộp của các điểm ấy, mà là cơ sở tạo nên tính đa bội vô hạn của chúng[28]). “Mở đầu hoặc kết thúc của mọi hiện tượng hoặc nội dung riêng lẻ không thuộc về bản thân nó, mà nằm ở chỗ khác – ở chung cục, ở toàn cục như vốn dĩ”[29] . Nói cách khác, không phải các yếu tố tạo ra chỉnh thể, mà chỉnh thể tạo ra các yếu tố của nó; điều đó có nghĩa là: “chỉnh thể” bao giờ cũng chứa đựng trong mình một cách hiển nhiên – dưới dạng “gói lại” – toàn bộ sự phong phú của cái cụ thể và đơn nhất, nó chỉ khai triển những gì vốn có trong đó. Các hiện tượng cụ thể của thế giới chỉ là những “hình ảnh” phái sinh đặc biệt của Trung tâm như những sản phẩm trực quan tự biểu lộ cần phải quy về cái Căn nguyên khởi thuỷ của nó.

Nếu Platon sáng tạo ra dị bản “tĩnh tại” của siêu hình học hiện tồn, nơi Tồn tại duy nhất trong bản thân nó là thế giới trú ngụ, bất động và bất đổi, thì Hegel lại sáng tạo ra mô hình “năng động”, trong mô hình này, sự tự phát triển của tinh thần tuyệt đối được diễn ra dưới sự hỗ trợ của “phủ định” biện chứng, sự phủ định biến mọi hiện tượng thành một giai đoạn phụ thuộc vào tiến trình hợp lí của thế giới, mà điểm khởi đầu và kết thúc của nó bao giờ cũng có trước; nó không thể tách ra khỏi cái “vòng tròn”, nơi mọi “mâu thuẫn” đều bị cầm tù bởi sự viên mãn tồn tại và tự tồn tại của cái Tổng thể. Sự “phủ định” của Hegel không chỉ loại bỏ mọi thứ đối đầu phân cực không thể tránh khỏi, mà còn hách dịch yêu cầu khắc phục chúng – “huỷ bỏ” (Aufhebung) chúng trong chuỗi các tổng hoà biện chứng có sứ mệnh dẫn tới  trạng thái “chân lí” (trạng thái ước muốn và thiết yếu, cũng có thể là trạng thái đạt được trong hiện thực) của bản thân thế giới (Weltzustand), trạng thái để cuối cùng được so sánh với Ý niệm riêng (tiếng Đức: Begriff, tiếng Pháp: Concept), trong đó, “chỉnh thể”, sự “hoàn kết” và “tuyệt đối” gắn kết với nhau.

Dù có nhiều điểm rất khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm của Platon, Plotin và Hegel, trong cả hai trường hợp, định chế nhất nguyên nằm ở chỗ: làm thế nào để xuyên qua sự đa dạng trực quan và sự hỗn độn nhỡn tiền của thế giới hiện hữu có thể nhìn thấy sự đồng nhất khởi thuỷ của Căn nguyên, sau cái riêng, nhìn thấy cái chung, sau cái không thể đoán định, nhìn thấy sự thiết yếu, sau sự vận động, nhìn thấy sự tĩnh tại.

Chủ nghĩa nhất nguyên có sức mạnh và sự nhất quán của “triết học thống nhất”. Nhưng nhược điểm của nó là không có khả năng luận giải từ góc độ bản thể luận cả về cái cái đơn nhất của các hiện tượng thuộc thế giới trực quan, lẫn tính độc lập của vô số trung tâm tồn tại. Thứ triết học ấy thực chất là chủ nghĩa tiên tạođộc điệu và phi nhân cách.

Chủ nghĩa tiên tạo cho rằng, cái Tuyệt đối và “chỉnh thể” do nó tạo nên bao giờ cũng hiển nhiên chứa đựng trong bản thân – dưới dạng “thu lại” – toàn bộ sự đa dạng của cái cụ thể và cái đơn nhất, chỉ cần khai triển tất cả những gì chứa đựng trong đó. Các hiện tượng cụ thể của thế giới chẳng qua chỉ là là những “dạng” phái sinh của Trung tâm với tư cách là chủ thể đích thực duy nhất của sự tự giả định và tự phát lộ; như là sản phẩm trực quan của sự tự phát lộ ấy, những sản phẩm này cần được quy về Nguồn cội của mình, về “gốc rễ”, về “cơ sở của các cơ sở”, nơi hợp nhất tồn tại. Được hiểu trong tính tự túc, tự mãn của nó, chẳng cần ai, chẳng cần cái gì, không đáp lại, không đoán định lời nói của ai, hoàn toàn tập trung vào bản thân mình, Trung tâm tuyệt đối trở thành hiện thân của nguyên tắc độc thoại thuần tuý, loại độc thoại dẫn tới tinh thần khách quan phi nhân cách, lấy hệ thống của các quá trình và chức năng siêu cá nhân thay thế cho các cá thể cụ thể.

Từ đó, có thể rút ra, sự tự trị của cái đơn nhất và cái riêng lẻ, – thực chất chỉ là sản phẩm tan rã và suy thoái của cái Tuyệt đối,- cần nhận ra toàn bộ tính ảo tưởng của nó. Bản thân sự đa dạng của thế giới chỉ là kết quả giảm thiểu của Căn nguyên, còn những hiện tượng cụ thể, vốn được rút ra từ những tế bào ngẫu nhiên hiện tồn và cần trả về cho ngữ cảnh bản thể luận khởi nguyên – cái đơn nhất và cái đích thực duy nhất – đã mất đi tính hợp pháp tự nó. Kết quả là, bản thân sự tồn tại của cái Nhiều, tức là vô số các trung tâm cá nhân, hoá thành một thứ hình thức trong suốt của khởi nguyên siêu cá nhân, thành “sự lệch lạc” hiện tồn, một “tồn tại giả”, còn “mâu thuẫn” theo kiểu Hegel thực ra là mâu thuẫn giả (vì đó là mâu thuẫn của “cái khác của mình”, tức là một tồn tại khác của chính bản chất ấy), “phủ định” là giả phủ định, “tự vận động biện chứng của khái niêm” là vận động giả, còn đối thoại là độc thoại tuyệt đối[30].

Nói cách khác, nếu Một nuốt chửng Nhiều, nếu cái cá nhân “chết chìm trong cái toàn thể thống nhất” (N.A. Berdjaev), thì điều đó có nghĩa là sự thống nhất của tồn tại, sự thống nhất của ý thức và sự thống nhất của giống người sẽ được mua đứt bằng cái giá của sự khước từ mọi thứ chủ nghĩa đa nguyên. Đó chính là lỗ hổng phương pháp luận trong “triết học thống nhất” mà các vị đại diện cho quan điểm “triết học đa bội” hiện đại – cánh hậu cấu trúc luận Pháp, nhắm tới.

Tuy có sự khác biệt giữa Giải cấu trúc của J. Derrida, phép Lặp của G. Duleuze, thuyết Bất hoà của J. Lyotard, Khảo cổ học của M. Foucault, vẫn có một ý đồ nối kết họ lại với nhau, ấy là xoá bỏ cái Tuyệt đối, giải phóng cái đa bội ra khỏi quyền lực của nó, phóng thích các ý nghĩa của những lời nói khác nhau và cho phép sự vật nào cũng có thể khẳng định tính đơn nhất thực sự của mình.

Nếu phép biện chứng của Hegel muốn xoá bỏ mâu thuẫn giữa chính đề và phản đề bằng cách đưa chúng vào một quá trình đơn nhất đảm bảo tạo ra thông ước cho tất cả các cấp độ tham gia trong đó, thì triết học đa bội lại có ý đồ chặt đứt, làm phân rã quá trình ấy và, bằng cách chỉ ra tính dị chủng về nguyên tắc của cái “đồng” và cái “khác”, sẽ bác bỏ bản thân tư tưởng về sự tổng hợp và đối lập mọi thứ hệ thống hoá với “vận động phi biện chứng” – vận động của những “ham muốn” phiêu bạt hỗn độn, vận động được phát hiện qua liệu pháp “giải cấu trúc”.

Có thể nói, công cụ nổi tiếng nhất của giải cấu trúc là cuộc giải phẫu sự “trì biệt” (différance) bất tận, đầy năng động do J. Derrida đề xướng để đối lập với phạm trù tĩnh tại yêu thích của cánh cấu trúc luận: “khác biệt” (différence).

Sử dụng hai nét nghĩa của động từ différer (1. “Phân biệt”, “tách biệt”, “không đồng nhất” và 2. “Triển hạn”, “trì hoãn”, “dềng dang”), Derrida đã trộn lẫn chúng với nhau thành khái niệm: “trì biệt”, ở đây, tư tưởng về sự khác biệt nằm trong ý niệm về khoảng cách không gian và sự đứt gẫy thời gian: “différance” nhắm tới sự vận động (tích cực hoặc thụ động) nằm ở sự “kéo dài, thông qua sự trì hoãn, đổi địa chỉ, gia hạn, chuyển phát, vòng vèo, kéo dài, để dành”[31]. Bởi vậy, cả thời gian hoá không gian, lẫn không gian hoá thời gian được thực hiện đồng thời trong thuật ngữ “différance”

Theo Derrida, “trì biệt” không đơn giản là điều kiện tồn tại đầy năng động của tất cả những “khác biệt” hiện hữu nào đó, cái điều kiện chế định bản thân thực tế xuất hiện của chúng; và – đây mới thực là điều chính yếu – nó còn là công cụ đặc biệt có nhiệm vụ làm lay chuyển và phân rã mọi loại ý nghĩa rắn chắc, mọi căn nguyên ổn định, bởi vì “différance chẳng hề có bất kì sự thống nhất ban đầu và toàn vẹn nào diễn ra trước đó của khả năng hiện hữu”[32].

Muốn biết “cỗ máy tác chiến” của giải cấu trúc luận đã vận hành như thế nào, xin nhớ lại cuộc tranh luận giữa Jacques Derrida với Saussure cùng cách giải thích của ông về kí hiệu.

Với Saussure và các môn đệ-cấu trúc luận của ông, nghĩa từ điển của từ hiển nhiên là nhắm tới tính ổn định và đơn trị, bởi vì đơn vị từ vựng nào cũng gắn với một số lượng lớn các đối lập ngôn ngữ: số lượng đối sánh cảng lớn, thì sự tự đồng  nhất ngữ nghĩa của kí hiệu càng cao: “Bên trong một ngôn ngữ, các từ biểu hiện những khái niệm gần nhau bao giờ cũng hạn định lẫn nhau: các từ đồng nghĩa, ví như  “redouter” – “e sợ”, “craindre” – “sợ hãi”, “cảm thấy sợ”, chỉ có ý nghĩa quan trọng tuỳ vào mức độ đối lập lẫn nhau; nếu như “redouter” không tồn tại, thì toàn bộ nội dung của nó sẽ chuyển qua đối thủ cạnh tranh. <…>. Cho nên, ý nghĩa của từ nào cũng được xác định bằng tất cả những gì có liên hệ với nó”[33].

Không bác bỏ bản thân luận điểm về mối quan hệ tương hỗ giữa các đơn vị ngôn ngữ, nhưng Derrida nghi ngờ quan điển của Saussure, theo đó “ý nghĩa” (valeur) của những đơn vị như vậy thích hợp với sự xác định theo kiểu đơn trị, mà theo Saussure, đúng là nó được đảm bảo với sự hỗ trợ bởi mạng lưới của những sự khác biệt tạo nên trường ngữ nghĩa của chúng.

Thực ra, nói chung, từ không sống trong từ điển, mà sống trong thực tiễn giao tiếp lời nói, và đời sống sinh động (phi từ điển) ấy trước hết nằm ở chỗ, từ được lặp lại vô tận do khoảnh khắc nào cũng được nhập vào những ngữ cảnh đa tạp nhất.

Vấn đề là ở chỗ, sự lặp lại này có thể được giải thích chí ít bằng hai cách trực tiếp đối lập với nhau.

Theo quan điểm của những tín đồ theo truyền thống Saussure – cấu trúc luận Pháp (A. Martin, A.-J. Greimas) hoặc các vị đại diện của “lí thuyết ngôn hành” (J.L. Austin, J.R. Searle), điệp cú pháp hoặc điệp ngữ nghĩa không làm suy giảm ý nghĩa từ vựng của từ, mà trái lại, giúp tăng cường mối liên hệ ngữ nghĩa của ngữ cảnh và bằng cách ấy, nó củng cố tính đơn trị ngữ nghĩa của mỗi đơn vị từ vựng, đó chính là điều khiến hành vi giao tiếp như vốn dĩ trở thành cái có thể có.

Tranh luận với “chủ nghĩa khách quan trừu tượng” của ngôn ngữ học Saussure, M.M. Bakhtin phát triển tư tưởng, theo đó, ngữ cảnh sử dụng một đơn vị ngôn ngữ nào đó sẽ làm thay đổi triệt để, cho tới cùng kiệt ngữ nghĩa của nó: “Ngữ nghĩa của lời nói hoàn toàn bị ngữ cảnh của nó quy định. Thực chất, có bao nhiêu ngữ cảnh sử dụng một từ nào đó, thì cũng có bấy nhiêu ý nghĩa của nó. Nhưng đồng thời, lời nói bao giờ cũng mang tính đơn nhất, nó, có thể nói, không tan rã thành các từ theo số lượng các ngữ cảnh sử dụng nó. <…> Dung hoà tính đa nghĩa trên nguyên tắc của lời nói với sự thống nhất của nó như thế nào? – thì cũng có thể trình bày vấn đề cơ bản của ngữ nghĩa thô thiển và sơ đẳng như vậy. <…> Chủ nghĩa khách quan xử sự thế nào? Bình diện thống nhất của ngôn từ giống như được rắn lại và rời ra từ tính đa trị về nguyên tắc của các ý nghĩa của nó. Tính đa trị này được hiểu như là những bồi âm ngẫu nhiên của một ý nghĩa rắng chắc và ổn định duy nhất. Xu hướng chú ý của ngôn ngữ học đối lập trực tiếp với xu hướng hiểu biết sinh động  của người nói đang tham gia vào một dòng lời nói nào đó. Khi đối chiếu ngữ cảnh của một từ nào đó, nhà ngữ văn-ngôn ngữ học tìm điểm tựa ở bình diện đồng nhất trong sử dụng, vì điều quan trọng với anh ta là tóm lấy một từ nào đó từ ngữ cảnh này, hay ngữ cảnh khác được mang ra đối sánh và tạo cho nó tính xác định bên ngoài ngữ cảnh, tức là từ đó, sáng tạo ra một từ kiểu trong từ điển”[34].

Phân biệt trên nguyên tắc “nghĩa” (“tất cả yếu tố phát ngôn được lặp lại và đồng nhất với bản thân trong toàn bộ sự lặp lại của nó”) và “chủ đề” phát ngôn (một hệ thống kí hiệu phức tạp, năng động có tham vọng trở thành cái tương đương với thời điểm nào đó của sự hình thành”, “phản ứng của ý thức đang hình thành trước sự hình thành của tồn tại”), M.M. Bakhtin nhấn mạnh: “Tính đa trị về nghĩa đó là dấu hiệu cấu trúc của ngôn từ. Về thứ ngôn từ biểu thị thất thảy <…>, chúng tôi xin nói như sau: thứ ngôn từ ấy thực chất hầu như không có nghĩaNó chẳng qua chỉ là chủ đề. Nghĩa của nó không tách rời tình huống thực hiện cụ thể của nó. Nét nghĩa đó mỗi lần một khác, giống như tình huống mỗi lần xuất hiện một khác. Bởi vậy, ở đây, chủ đề nuốt chửng, hoà tan nghĩa trong bản thân, không có nghĩa trở thành ổn định, hoặc đông kết lại dẫu chỉ một chút”[35].

Tương tự như thế, Derrida cũng cho rằng, sự tự đồng nhất ngữ nghĩa của ngôn từ có thể sẽ phải trả giá cho việc tách nó ra khỏi ngữ cảnh lời nói đa dạng của xã hội, chẳng những thế, còn đánh tráo nó bằng ngữ cảnh thuần nhất theo kiểu của chủ nghĩa Hegel (sự “tự tồn tại của ngữ cảnh toàn trị”). Tuy nhiên, nếu với Bakhtin, người cho rằng, không cần phải huỷ bỏ nghĩa của “từ trong từ điển”, mà  có thể sử dụng nó như một “thiết bị kĩ thuật” để thực hiện các ý nghĩa cụ thể, điều quan trọng là phải nhấn mạnh “mâu thuẫn” và “cuộc đấu tranh” của chúng trong “dòng chảy của sự hình thành”, thì Derrida nghiên cứu thứ ý nghĩa như thế với tư cách là trung tâm cần nới lỏng, đập vụn, phân tán: tính ổn định ngữ nghĩa của ngôn từ là không thể có (với ý nghĩa như thế, đó là ảo tưởng) trong chừng mực bất kì kí hiệu nào cũng nhắm tới sự đa bội vô tận của ngữ cảnh sử dụng, bao gồm cả ngữ cảnh của quá khứ và tương lai, và vì thế, nó làm tiêu tán sự tự đồng nhất riêng biệt” sự tự đồng nhất ấy không bao giờ có “trong thực tại”, bời vì nó bị “phân rã”, bị trầm lắng trong quá trình của những quá trình trì biệt vô tận: “mỗi yếu tố được xem là “hiện hữu” <…> đều có quan hệ với một yếu tố khác nào đó so với chính nó, do duy trì trong bản thân vết tích của yếu tố xẩy ra trước đó và cho phép mài sắc bản thân tạo ra vết tích quan hệ của mình với yếu tố tương lai<…>[36].

Cho nên, bất kì sự vật, khái niệm, ý nghĩa bất động nào đều bị thử thách “độ bền vững”, cho tới khi chúng tự phân rã và tự huỷ diệt. Mọi hành vi biểu nghĩa bền vững, mọi kì vọng vào  sự tồn tại của của lời nói “sau chót”, “cuối cùng” về thế giới, mọi ý đồ sở đắc cái “đích thực khởi nguyên”[37] của vũ trụ đều trở thành đối tượng hoài nghi sâu sắc, mà mục đích của sự hoài nghi ấy là phá huỷ sự siêu việt, và do đó, phá huỷ cái bản thể luận như vốn dĩ: “Chúng tôi kì vọng sẽ tìm thấy một điểm xác định của vị thế đứng ngoài trong quan hệ với thời đại lấy Thần ngôn làm trung tâm nói chung”[38].

Bởi vậy, nền tảng của triết học đa bội là quan niệm về tính nước đôi không thể loại bỏ ở mọi khách thể của đối tượng hoặc khái niệm – tính nước đôi này về nguyên tắc không thể khắc phục trong hành vi “xoá bỏ” theo kiểu chủ nghĩa Hegel. Giải cấu trúc luận đối lập chủ nghĩa duy lí của Hegel, “mưu kế của lí trí” với sự “ranh mãnh” và sự “khôn khéo” của các sự vật luôn nhờ vào sự thông đồng độc đáo của những cái biểu đạt tìm cách tuột ra khỏi sự chiếm hữu của khái niệm: “Nó là gì đây, nếu đó là ý nghĩa của ý nghĩa (theo ý nghĩa chung của ý nghĩa, chứ không phải của hệ thống tín hiệu) – liệu nó có phải là quan hệ phỏng lặp bất tận? Hay đó là thông điệp, là lời chú dẫn bất tận của cái biểu đạt này chuyển tới cái biểu đạt khác? Hay lực của nó, đó là gì – liệu có phải là tính đa nghĩa thuần tuý và bất tận, sự đa nghĩa không để cho cái được biểu đạt được đứng yên, hay tạm nghỉ, luôn khêu gợi nó – trong khuôn khổ kiệm ước thuần tuý – sáng tạo ra những ý nghĩa ngày càng mới mẻ, tức là lại phân biệt và trì hoãn? Nếu không tính cuốn “Sách” chưa sáng tác của Mallarmé, thì không ở đâu có sự tự đồng nhất của lời được viết ra”[39].

Không phủ định ý niệm về Tuyệt đối, Trung tâm, hay Thần ngôn như vốn dĩ, Derrida chỉ nghi ngờ sự “hiện diện” tích cực của chúng, thế tức là hoài nghi khả năng  nghiên cứu trực tiếp, tiếp cận, chiếm lĩnh chúng “ở đây và bây giờ”. Trung tâm không bị tiêu diệt, nhưng, tựa như một ảo ảnh, nó luôn luôn hoặc là ẩn vào chốn thâm sâu không thể nhìn thấu của quá khứ, hoặc trong viễn cảnh vô tận của tương lai chẳng rõ hình hài: không giây nào hiện hình trực tiếp, từng khoảnh khắc, nó chỉ lên như là vô số dấu tích của sự vắng mặt của mình.

Nếu Platon, khi trình bày quan điểm của một số nhà tư tưởng thời tiền Socrates, từng nói, rằng tồn tại đồng thời “vừa đa bội vừa thống nhất”, bởi vì nó được duy trì không chỉ bằng sự “thù nghịch”, mà còn bởi tình “thân thiện” (Sophiste, 242 e), thì chủ nghĩa hậu hiện đại không muốn liên kết các khái niệm ấy, nó có ý đồ đối lập chúng, trình bày chúng dưới dạng lựa chọn “hoặc là – hoặc là”[40], nó ngả hẳn về phía “thù nghịch”, chứ không phải “thân thiện”.

Nỗi lo sợ trước sự thống nhất hoá và toàn trị hoá, đuổi bắt sự đa dạng bên trong của tồn tại – động lực của sự “thù nghịch” nói trên là như vậy. Không đơn giản chỉ là sự đa dạng, mà còn là sự đa loài, tạp chủng (hétérogène) và đa luật lệ (hétéronomie) của những căn nguyên vô ước và bất tương dung, không phải là đa mực thước, mà là sự tạp chuẩn (có bao nhiêu cấp độ nghĩa thì cũng có bấy nhiêu “mực thước” trên thế giới), không phải là sự đa giọng, mà là tạp thanh của tồn tại, nói tóm lại, không phải là tính “đa bội trong sự thống nhất”, mà là “đa bội thiếu sự thống nhất” – đó chính là tư tưởng cơ bản của triết học hậu hiện đại.

Là sự tích tụ trạng thái đa bội bất tận của những “ham muốn”, những “phương cách sống”, những “trật tự ý nghĩa”, những sự định giá và nhãn quan giá trị-tư tưởng hệ muôn hình vạn trạng, thế giới trở thành vũ đài của chủ nghĩa đa nguyên chiết trung, nơi các ngôn ngữ xã hội – tư tưởng hệ, do thiếu vắng một nền móng chung, quả tình chẳng có gì để mà nói với nhau: những sự làm giàu lẫn nhau và sự trưởng thành thực sự chẳng còn quan trọng với nhau, không hứng thú lẫn nhau, xa lạ với tiến trình, chúng ngả hẳn về phía xung đột. Chống lại “ảo tưởng siêu việt” của Hegel, người khẳng định “chân lí là chỉnh thể”,  J. Lyotard đã giương cao khẩu hiệu “tuyên chiến chống lại cái chỉnh thể”[41]. Cuộc chiến tranh của “tất cả chống lại tất cả”, nó giả định về sự tan rã của tồn tại thành các bộ phận hợp thành của nó, nó xoá bỏ chính ý niệm về trung tâm và ngoại vi, đặt lên bình diện thứ nhất những phạm trù, ví như “tạp chủng”, “tiếp biến”, “phân mảnh”, “lắp ghép”, “bất ổn”, “nước đôi” – một cuộc chiến tranh như thế tất yếu sẽ đưa thế giới vào trạng thái hỗn độn, và nhiệm vụ chiến lược của “triết học đa bội” không phải là làm thế nào để khắc phục trạng thái hỗn độn ấy, mà là làm thế nào để bắt nó phải lên tiếng.

TỪ TÁC PHẨM ĐẾN VĂN BẢN

Có thể nói, Roland Barthes là người thành công nhất trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược nói trên. Xem xét lại khái niệm liên văn bản của Kristeva, Barthes đã tạo cho nó một tên gọi ngắn gọn và mạnh mẽ hơn: VĂN BẢN. Barthes nhấn mạnh, về mặt thuật ngữ, “văn bản” có nghĩa là “tấm dệt”, “mạng lưới”, “tấm vải”, và nếu vào những năm 1970, nguyên mẫu “văn bản” của Barthes thường là “Thiên Hà của Gutenberg”, hoặc “Thư viện” của Borges, thì ngày nay, hình ảnh thích hợp nhất với nó là “siêu văn bản” máy tính – một “tấm dệt”, “mạng lưới toàn thế giới”.

Vào năm 1970, trong cuốn S/Z, Barthes đã mô tả văn bản dưới dạng mở rộng như là “tính đa bội đắc thắng”: “Một văn bản lí tưởng như thế đầy ắp vô số lối đi giao cắt nhau ở bên trong, không áp chế lẫn nhau, nó là mạng lưới của những cái biểu đạt, chứ không phải là cấu trúc của những cái được biểu đạt; nó không có mở đầu, nó mang tính thuận nghịch khả hồi, có thể thâm nhập vào đó qua vô số cửa ngõ, nhưng không một lối nào được xem là chính đạo; chuỗi mã do nó khởi động đã mất biến ở đâu đó trong cõi xa xăm vô tận;  chúng “bất khả giải” (nghĩa của chúng không phụ thuộc vào nguyên tắc khả giải, cho nên mọi sự giải quyết đều mang tính ngẫu nhiên giống như khi ném con thò lò); nhiều hệ thống ngữ nghĩa khác nhau có khả năng sở đắc cái văn bản cực kì đa bội ấy, nhưng phạm vi của chúng không khép kín, bởi vì mực thước của những hệ thống như vậy là tính vô tận của bản thân ngôn ngữ”[42].

Đoạn mô tả vừa dẫn ở trên đã cho thấy trước sẽ xuất hiện vô số định nghĩa về siêu văn bản mà các nhà lí luận internet (bắt đầu từ Theodor Nelson) từng đưa ra vào những năm 1980. Khái quát lại các định nghĩa ấy, chúng ta sẽ hình dung được những đặc điểm chính yếu trong khái niệm VĂN BẢN (liên văn bản, siêu văn bản) của Barthes:

– Thiếu trung tâm ý nghĩa và trật tự ngữ nghĩa: VĂN BẢN là sự đa bội phi trung tâm;

– Phi tầng bậc, phi cấu trúc, kiểu “rễ chùm” (giống như “thân rễ” được G. Deleuze và F. Guattari mô tả[43]): VĂN BẢN vô tiền khoáng hậu, không đầu, không cuối ;

– Tạp chủng, đa chiều kích và đa giọng điệu :VĂN BẢN mang tính đa nguyên và đa trị;

– Tính phân mảnh do tính đa nguồn cội quy định: không gian văn bản là môi trường tuy liên tục theo kiểu riêng, nhưng phi đồng nhất ;

– Không có bất kì một thứ văn phạm và cú pháp nào, không có nhiệm vụ giao tiếp, phi mục đích luận;

– Phi tuyến tính: khác với tác phẩm hoàn chỉnh, nơi có thể di chuyển từ một yếu tố nghĩa này sang một yếu tố nghĩa khác, mà nó trực tiếp chỉ ra, VĂN BẢN ước định những bước chuyển tự do, chớp nhoáng từ một điểm bất kì sang một điểm bất kì khác và bằng cách ấy, nó nó tạo ra khả năng nối kết tạm thời tập hợp bất tận các cấp độ ngữ nghĩa; từ một điểm bất kì của VĂN BẢN, các chuỗi dấu tích chuyển dẫn cho nhau tạo thành mạng lưới liên tục tản ra mọi ngả;

– Tính thuận nghịch khả hồi của hiện tại, quá khứ và tương lai: VĂN BẢN không chỉ cho phép “ bắt khoảnh khắc phải dừng lại ”, mà còn “trả lại cái đã biến mất” – nhìn sâu vào bất kì điểm nào của quá khứ;

– Kính vạn hoa, bằng cách thay đổi liên tục các máy ghi, có khả năng làm nổi bật một loạt yếu tố của bức tranh khảm văn bản và làm mờ nhạt các yếu tố khác;

– Tính năng động nội tại cho phép cách li tối đa mọi khách thể, hoặc ngược lại, tiếp cận sát tới nó[44];

– Tính phi hoàn kết và bỏ ngỏ như khả năng cơ bản giúp tăng cường và mở rộng  vô giới hạn: VĂN BẢN cho phép đưa vào những bổ sung mới, nhờ thế, ý ngiã nào của văn bản cũng không đóng kín, để ngỏ cho những tác động tương hỗ tiềm tàng với tất cả các nghĩa khác;

Như vậy, Văn bản hậu cấu trúc là một tổ hợp các yếu tố không đồng nhất được gắn kết không hẳn bằng các quan hệ ẩn dụ và nhân quả, mà chủ yếu bằng các quan hệ hoán dụ – các quan hệ lan tràn và tiếp xúc qua lại, do có thể xẩy ra mọi sự di chuyển vượt qua các giới hạn phân loại[45].

Văn bản là sự biểu hiện của cái chiều sâu “vô đáy” và “vô tăm tích” mà vào những năm 1960 M.M. Bakhtin đã tập trung nghiền ngẫm[46] – nó là kho báu có sức chứa vô giới hạn. Việc lặn sâu vào văn bản hứa hẹn sẽ “tìm thấy cả thế giới”, tham vọng bao trùm tất cả của nó chỉ có thể so sánh với bách khoa thư. Nhưng kí ức bách khoa thư  – với mục đích chế ngự sự da dạng, tìm được tri thức đầy đủ và hoàn hảo, không chỉ điều hoà các lĩnh vực khoa học khác nhau, mà còn điều hoà cả các phạm vi tồn tại bên trong bản thân mình – yêu cầu phải có một “trật tự và trình tự” duy lí, một cấu hình chặt chẽ, biến “cái tranh luận thành cái hiển nhiên”[47].  Trong khi đó, kí ức tập thể – vô thức của Văn bản là không gian hỗn độn của một “trật tự-chưa-được-tổ-chức”, đó là sự phong túc ngữ nghĩa chảy tràn ra mọi bến bờ, vượt qua mọi vật cản, có thể làm hồi sinh các hiện tượng văn hoá bị quên lãng, bị tình huống hiện tại chèn ép, ruồng bỏ[48], và nếu bách khoa thư (trí tuệ theo trật tự chữ cái) đúng là “biểu tượng quan trọng bậc nhất của tinh thần thời Hiện đại”[49], thì sẽ càng đúng hơn, khi Văn bản với tham vọng nén kí ức duy lí ấy, biến nó thành thứ siêu-kí ức, siêu-bách khoa thư, được xem là một trong những biểu tượng của thời hậu hiện đại.

Tác phẩm là sự đối lập trực tiếp với Văn bản. Nó là một đơn tử nghĩa, một cấu trúc nghĩa hoàn kết, một chỉnh thể cấu hình bền vững và mạch lạc được gắn kết bởi nhiệm vụ thống nhất của tác giả; tác phẩm là một kiến tạo mục đích luận, cấu trúc này là sản phẩm hoàn bị của hoạt động (chứ không phải bản thân quá trình hoạt động ấy), trong đó, các dấu tích của sự “hình thành nội tại” của nó đều bị xoá sạch (J. Derrida), và nó được tổ chức với mục đích tác động tới người nhận: tác phẩm đó là phát ngôn có chức năng giao tiếp”[50]. Văn bản của Barthes có quan hệ với tác phẩm cũng tựa như  “vật chất” của Aristotle có quan hệ với “hình thức”[51].

Sáng tạo ra tác phẩm, mỗi tác giả tất yếu sẽ chắt từ “kho lưu trữ” văn bản vô tận, kiến tạo cấu trúc ngữ nghĩa của mình với sự hỗ trợ của chất liệu được cất giữ trong Văn bản, có thể là những lời, những câu riêng lẻ hay cả một đoạn văn được cố ý vay mượn từ các tác phẩm của người khác, đọc được trên báo chí, nghe được ngoài đường phố, rút từ màn hình tivi v.v…, hoặc những đoạn thuyết trình ngắn, những diễn văn đủ loại, những thể loại, phong cách, mã xã hội, những ngôn ngữ, diễn ngôn…, tức là từ những gì tạo nên các ngữ cảnh văn hoá riêng lẻ cũng như Văn bản văn hoá nói chung. Người nói/người viết không mấy hiểu rõ “văn bản” riêng của mình (kí ức văn hoá của mình), nhưng ngoài ý muốn, kí ức ấy vẫn chi phối họ ngay từ thời thơ ấu. “Vì trước văn bản và xung quanh văn bản bao giờ cũng có hoạt động ngôn ngữ, các mảnh vỡ của những bộ mã đủ loại, những cách biểu đạt, những mô hình tiết tấu khác nhau, những mảnh, miếng của ngôn ngữ xã hội thâm nhập vào văn bản tái phân bố lại ở đó. Là điều kiện thiết yếu của văn bản, dẫu nó là thế nào, tính liên văn bản dĩ nhiên hoàn toàn không quy về vấn đề nguồn gốc và ảnh hưởng. Liên văn bản  là phạm vi rộng mở của những công thức vô danh khó xác lập nguồn gốc, của những đoạn trích vô tình hoặc tự động không để trong ngoặc kép”. ‘Mọi văn bản đều là liên văn bản: ở những cấp độ khác nhau, trong hình thức được nhận biết ít hay nhiều, bao giờ cũng hiện diện những văn bản khác – những văn bản của văn hoá trước đó và những văn bản của văn hoá bao bọc xung quanh; mọi văn bản đều là tấm vải mới đan dệt từ những trích dẫn đã từng được sử dụng”[52].

Mỗi tác phẩm đều có văn bản của mình, phụ thuộc vào đó, không có văn bản, nó không thể tồn tại, cũng như đuôi sao chổi không thể tồn tại nếu không có sao chổi[53]; lại nữa, tất nhiên, quan hệ giữa tác phẩm và văn bản bao giờ cũng mang tính tích cực đặc biệt: thu hút vào bản thân vật liệu văn bản đầy năng động, tác phẩm nhào nặn, tổ chức lại, buộc nó phải phục tùng nhiệm vụ của tác giả, kẻ luôn luôn cố sáng tạo ra một ý nghĩa bền vững – thống nhất và duy nhất.  Tác giả nào cũng tất yếu buộc trò chơi tổ hợp Văn bản phải dừng lại, áp chế, đè nén cái dàn đồng thanh phức điệu có từ thời xa xưa. Dẫn vị tất đã làm được như thế một cách rốt ráo (Barthes nhận xét: “mẩu bé tí” của văn bản không chỉ tìm thấy trong các tiểu thuyết của Proust hay Flaubert, mà thậm chí còn tìm thấy cả trong Bossuet[54]), nhưng trong quan hệ với Văn bản, ở mọi trường hợp, tác phẩm bao giờ cũng giữ vai trò nô dịch.

Chính Barthes là tác giả không chỉ phát hiện ra tính chất hai mặt của mối quan hệ tác phẩm/Văn bản, mà còn khám phá bản chất nước đôi của chính Văn bản.

Một mặt, sự đa nghĩa và phi quyền lực về nguyên tắc của văn bản đối lập với tính đơn trị và quyền lực cưỡng bức của tác phẩm mà trong đó toàn bộ cấu hình của nó phải phục tùng một mục đích: khơi dậy ở cử toạ một tư tưởng nào đó, một ý niệm nào đó về hiện thực, một “hình tượng thế giới”. Ở đây, mỗi tác phẩm là một phát ngôn cụ thể bằng một trong số các ngôn ngữ xã hội – tư tưởng hệ mà thời đại áp đặt và mỗi tác giả sẽ lựa chọn một cách vô tình hay cố ý (“Là sản phẩm của ngôn ngữ, nhà văn, theo cách này hay cách khác, thể nào rồi cũng bị cuốn vào cuộc chiến tranh giữa những chuyện hư tạo (các phương ngữ), lại nữa, anh ta chẳng qua chỉ là thứ đồ chơi trong cuộc chiến tranh ấy”[55]).

Theo Barthes, quan hệ giữa các ngôn ngữ là quan hệ tranh đua. Mỗi loại ngôn ngữ tư tưởng hệ bao giờ cũng đấu tranh giành quyền thống trị: “Đời sống ngôn ngữ chịu sự điều hành của một chiến địa nghiệt ngã, ngôn ngữ bao giờ cũng xuất phát từ một địa điểm nào đó và vì thế, mỗi ngôn ngữ chẳng phải là gì khác mà chính là một không gian tác chiến, nếu không gian ấy “có đầy đủ sức mạnh thì tất yếu nó sẽ loang ra mọi ngóc ngách của đời sống sinh hoạt xã hội thường nhật”. Nói cách khác, đời sống xã hội là một chiến địa Thần ngôn muôn đời, là cuộc “chiến tranh giữa các ngôn ngữ”, còn bản thân ngôn ngữ của các quan hệ xã hội chính là ngôn ngữ của sự xâm lăng và cưỡng bức, “một trong những thứ ngôn ngữ cổ xưa và thông dụng nhất”[56].

R. Barthes chẳng có chút mảy may cảm tình nào trước cuộc đối đầu tuyệt vọng của vô số các cấp tư tưởng hệ, ông thấy nhiệm vụ chiến lược của mình là làm thế nào để thoát ra ngoài “Thần ngôn quyển” thấm đẫm bạo lực – không chỉ thoát khỏi cuộc chiến tranh xa lạ với ông bằng cách tìm ra kế sách để khách quan hoá, tránh xa, báng bổ, giễu nhại nó, mà còn tìm kiếm một “ốc đảo cứu rỗi” nào đó – dẫu chỉ là ảo tưởng. Ốc đảo ấy hoá ra chính là Văn bản như là khu vực đa bội tuyệt đối, phi bạo lực và tự do. “Thứ tự do như thế là sự sang trọng mà xã hội nào cũng cần mang  lại cho công dân của mình: có bao nhiêu đam mê, ham muốn khác nhau, thì cũng cần phải có bấy nhiêu ngôn ngữ; – đó chỉ là giả định không tưởng cho đến khi chưa có xã hội nào sẵn lòng cho phép tồn tại nhiều ham muốn. Không một xã hội nào sẵn sàng cho phép một ngôn ngữ nào đó – bất luận đó là ngôn ngữ ra sao – thống trị một ngôn ngữ khác, cho phép một chủ thể trong tương lai – chưa hề cảm thấy lương tâm cắn rứt hay u sầu – nếm trải niềm vui được sở đắc ngay lập tức hai cấp ngôn ngữ”[57].

Barthes viết: “Văn bản chưa bao giờ không phải là đối thoại: trong văn bản không có lời cạnh khoé về sự láu cá, về sự gây hấn, không hề có chút cạnh tranh nào giữa các đặc ngữ”, ngược lại, là “vườn địa đàng từ ngữ” – điểm gặp gỡ của tất cả các cấp văn hoá xã hội và toàn bộ những niềm “đam mê” có thể có, văn bản tựa như hướng tới chúng: “Ta yêu tất cả các người hệt như nhau, ta yêu các kí hiệu cũng như yêu ảo ảnh của những đối tượng mà chúng biểu nghĩa; ở chừng mực nào đó, nó là dòng tu Fransisco đang mời gọi đồng thời tất cả các từ ngữ, thúc dục chúng nhanh chóng xuất hiện, vội vã lên đường; <…> Chúng ta chất lên mình toàn bộ sự giàu có của ngôn ngữ tới mức quá tải giống như đám trẻ con chẳng bao giờ bị người ta từ chối điều gì, trừng phạt điều gì, hay tệ hơn, chẳng có gì người ta không cho phép. Loại văn bản như thế là tiền cược cho mộ bữa tiệc bất tận, là khoảnh khắc mà niềm vui ngôn ngữ bắt đầu ngạt thở vì sự dồi dào của nó và phải thổ lộ bằng khoái cảm”[58].

Văn bản sẽ bị mất giọng, yếu đi về nguyên tắc vì “hệ thống trong đó bị chế ngự và phá huỷ”, vì trong đó “không có sự đối kháng đích thực nào, mà chỉ có mỗi tính đa bội” mang lại khoái cảm trước tình trạng phức điệu của vũ trụ, thưởng thức “trạng thái dị trị của sự vật”, nếm phẩm chất đa dạng của thế giới. Văn bản-khoái cảm – đó là “Babylone tươi vui”[59].

Mặt khác, khi cảm nhận sâu sắc lực giải phóng của “công việc văn bản”, R. Barthes cũng nhìn thấy rất rõ phương diện ngược lại, xa lạ của nó. Nếu trong Khoái cảm văn bản, ông mô tả Văn bản như một không gian, nơi bùng lên mọi “ngọn lửa ngôn ngữ” và là nơi có khả năng cảm nhận niềm hoan lạc đích thực nhất (không chỉ “khoái cảm” văn hoá”, mà còn “lạc thú” nhục dục), thì S/Z, cuốn sách dành cho việc giải cấu trúc tiểu thuyết Sarrasine  của Balzac, lại phát hiện ra một sự thật: hiện tượng âm lập thể của văn bản khi đem kiểm tra thực ra chỉ là âm lập thể của các khuôn đúc tư tưởng hệ.

Cặp đối lập quan trọng nhất mà R. Barthes dựa vào để tiếp cận văn hoá là cặp Mới và  – ngôn từ “tươi tắn”, “trực tiếp”, “được tạo ra lần đầu”, từ phía này, và ngôn gừ sáo mòn, dựa trên nguyện tắc lặp lại, ở phía kia: “<…>  Từ trong bản chất, ngôn ngữ tòng thuộc quyền lực[60] (ngôn ngữ xuất hiện và quảng bá dưới sự bảo trợ của quyền lực) là ngôn ngữ lặp lại; toàn bộ thiết chế ngôn ngữ chính thức – đó là những cỗ máy nhai đi nhai lại cùng một cái bã -, nhà trường, thể thao, quảng cáo, văn hoá đại chúng, sản phẩm ca nhạc, các phương tiện thông tin không ngừng tạo ra cùng một loại cấu trúc, một loại ý nghĩa, đôi khi, cùng những câu chữ giống hệt nhau: khuôn đúc – đó là hiện tượng đặc biệt của chính trị, là hiện thân đích thực của tư tưởng hệ”. Theo Barthes, mọi nơi và mọi lúc, ranh giới giá trị luôn luôn được vạch ra giữa sự ngoại lệ và luật lệ.  “Luật lệ là lạm dụng một cái gì đó, ngoại lệ là khoái cảm”: “Cái gì cũng được, miễn sao không phải là luật lệ (phổ cập, khuôn sáo, biệt ngữ: ngôn ngữ học thuộc lòng”[61].

Vấn đề mâu thuẫn là ở chỗ: có được một từ mới, loay hoay tìm được cách diễn đạt riêng của mình là điều cực khó, nếu chẳng muốn nói là không thể, và nguyên nhân là do có đến chín trong mười trường hợp cái mới hoá ra chỉ là “khuôn mẫu của sự tân kì”. “Tôi viết bởi vì tôi không ưa mọi thứ từ ngữ có sẵn, tôi viết từ cảm giác phản loạn”, thế mà, Barthes thấy, tôi vẫn phải sử dụng thứ “ngôn ngữ sống sít” (trước hết là ngôn ngữ của các nhà văn tôi đã đọc và đọc đi đọc lại), thứ ngôn ngữ đã thấm vào ý thức, tiềm thức và cả tác phẩm của tôi ngoài ý muốn của tôi”[62].

Đó chính là hiện tượng R. Barthes đã khám phá ra qua chất liệu của Sarrasine. Tiến hành “chụp lại chậm rãi” quá trình  đọc tiểu thuyết của Balzac, chia văn bản thành nhiều đoạn ngắn (“lexie”) và sau khi tựa như soi trên kính hiển vi từng đoạn ấy, ông ngạc nhiên nhận ra rằng, toàn bộ tiểu thuyết hoá ra được dệt từ những đoạn văn thường gặp, những bản đúc, những khuôn mẫu làm nên nền văn hoá thời đại Balzac. Tổng hợp các khuôn mẫu như thế đúng là đã tạo nên VĂN BẢN nằm ở phía sau tác phẩm của Balzac, – một cuốn “SÁCH khuyết danh” không chỉ chứa đựng trong bản thân “bộ sưu tập kì lạ toàn bộ trị thức bách khoa” của nửa đầu thế kỉ XIX, mà còn cả, điều quan trọng nhất, mạng lưới giá trị – ngữ nghĩa được vật thể hoá trong một bộ tuyển tập khuôn mẫu[63], mạng lưới mà nền văn hoá giăng ra giữa cá nhân và đời sống, áp đặt cho tác giả một cách giải thích cụ thể mọi hirnj tượng của thực tại, cản trở việc tiếp nhận nó một cách “thẳng thừng”, trực tiếp.  Mạng lưới ấy có tham vọng thay thế cuộc đời sống động. Bởi vậy, “đời sống” trong văn bản cổ điển bị biến thành món cám lợn phát buồn nôn của những ý kiến thông thường hoặc tấm vỏ bọc ngạt thở của những chân lí muôn đời”[64].

Dĩ nhiên, mọi chuyện không phải là ở bản thân tiểu thuyết của Balzac: vấn đề là ở chỗ, tác phẩm nào cũng vậy, không có ngoại lệ, giống như được đan bện bằng vô số mã văn hoá, đa số tác giả đều không mảy may chú ý tới sự tồn tại của các mã ấy và họ đã hấp thụ chúng hoàn toàn vô thức. Theo Barthes, “mã” văn hoá là “viễn tượng của những trích dẫn, là ảo ảnh được đan dệt từ các cấu trúc”; các đơn vị được chúng tạo thành chẳng phải là gì khác ngoài những mảnh nhỏ của một cái gì đó, một cái gì đã được đọc, đã được thấy, đã được thực hiện, đã được trải nghiệm: mã là vết tích của cái đã ấy. Trích dẫn cái đã viết từ trước, nói cách khác, từ cuốn Sách (sách văn hoá, sách cuộc đời, sách cuộc đời như văn hoá), nó biến văn bản thành bản toát yếu của cuốn Sách ấy[65]. Và Barthes khái quát: “Như thế tức là liên văn bản, nói cách khác – là bản thân việc không thể xây dựng cuộc sống bên ngoài giới hạn của một văn bản bất tận nào đó, cho dù đó là Prous, là tờ nhật báo hay các chương trình truyền hình”[66].

Thái độ đối với Văn bản, bất luận là “lạc quan” (văn bản là “vùng tự do”) hay bi quan (văn bản là nho kho chứa các bản đúc”), nó vẫn đặt ra trước nhà phân tích vấn đề lí thuyết hết sức nghiêm túc.

Rõ ràng là, ở khía cạnh chúng ta đang quan tâm, tác phẩm và Văn bản liên quan tới hai dạng khác nhau của kí ức con người. Tác phẩm gắn với kí ức cá nhân – có ý thức, được chọn lọc – của chủ thể ý chí (tác giả), còn Văn bản, như chúng ta thấy, gắn với kí ức vô thức của văn hoá. So với kí ức tác phẩm, kí ức Văn bản có sự phong phú ngữ nghĩa vô hạn: phạm vi đọc và kinh nghiệm văn hoá được ý thức nói chung của mỗi tác giả bao giờ cũng có giới hạn, nó chỉ giành lại cho hoạt động liên văn bản của anh ta một lãnh đia rất hẹp (bắt chước, mô phỏng, phong cách hoá, nhại, trích dẫn kín đáo hay công nhiên, dụng điển, hồi tưởng theo kiểu mơ hồ, hỗn độn). Chính vì thế, phía sau mỗi tác phẩm bao giờ cũng thấy nổi lên khối Văn bản khổng lồ, trong đó cái “được nói” bao giờ cũng lớn hơn bội lần so với điều bản thân tác phẩm “muốn nói”, vì Văn bản không chỉ ghi nhớ nền văn hoá trước và cùng thời với tác giả, mà còn ghi nhớ cả nền văn hoá của tương lai (Barthes đã chỉ ra khả năng một tác phẩm sớm hơn tựa như có thể ra đời từ một tác phẩm muộn hơn[67]).  Diễn đạt theo M.M. Bakhtin, tác phẩm nào cũng là Văn bản thu hẹp của nó[68], tác phẩm bao giờ cũng nghèo hơn gấp bội so với với Văn bản của mình, và chính cảm giác về sự khiếm khuyết ngữ nghĩa của mình, thậm chí cảm giác mất mát, sẽ trở thành động lực có khả năng khêu gợi ý thứ tác giả (cũng như ý thức người đọc) khát vọng vươn ra ngoài phạm vi chủ quan, vượt qua bản thân và những giới hạn của mình: tác giả cần phải “quên mình”, quên “cái tôi” cá nhân và tác phẩm của mình, hân hoan chết đi trong Văn bản – khi ấy, kí ức của Văn bản , kí ức chứa vào bản thân “tất cả”, sẽ tự nói lên ở trong đó.

Đó là con đường “từ tác phẩm đến Văn bản”, nhưng vấn đề là ở chỗ, trong toàn bộ sự giàu có vô tận của mình, Văn bản hoàn toàn vô định hình: trong Văn bản, lôgic hình thức không hoạt động, quy luật loại trừ cái thứ ba không hoạt động, trong đó không có nguyên nhân, không có mục đích, không có khung khái niệm, không có trật tự giá trị, chiếm giữa vị trí của những cặp đối lập phân cực là sự chao đảo bất tận của những hình tượng phủ kín lên nhau. Với ý nghĩa như thế, cái tương đồng với Văn bản sẽ là kí ức tuyệt đối của Ireneo Funes (trong truyện ngắn của Borges: Funes, sự mầu nhiệm của kí ức), ở đó không có kế hoạch, không có mục đích, và thực ra, nó chỉ là một cái “rãnh nước”, một cái kho chứa đồng nát, ở đó đổ đầy những ấn tượng mà nhân vật lĩnh hội được trong suốt cuộc đời, chẳng có ngoại lệ, cũng không có sự phân tích, xem xét gì. Một kí ức như thế rõ ràng đã đánh mất chức năng quan trọng nhất – chức năng chọn lọc, nó nhắc người ta nhớ tới “kho lưu trữ phế liệu”, chứ không phải là “kho báu”: sự đa dạng vô tận của kho lưu trữ ấy chứa đựng trong bản thân  mối hiểm hoạ khủng khiếp – hiểm hoạ mất hút trong những mê cung hỗn độn của kho lưu trữ kí ức, thứ nhà kho chẳng phục vụ cho mục đích giao tiếp, cho sự hiểu biết đời sống, cũng không tạo ra tri thức về nó. Nó không thúc đẩy việc chiếm lĩnh thế giới, mà chỉ làm cho thế giới bị tổn thất. Thực ra, Funes đang hấp hối vì trở thành vật hi sinh cho năng lực bất hạnh của mình – không biết quên – thứ năng lực chắc chắn đã khiến anh ta bại liệt, tước bỏ của anh ta mọi khả năng phân tích định hướng trong đời sống hiện thực và thực hiện những hành động có ý hướng. Cho nên chắc chắn sẽ không có chuyện làm sao để anh ta có thể sáng tạo ra một tác phẩm nào đó[69].

Tóm lại, tác phẩm mang tính đơn trị, nhưng Văn bản mang tính đa trị, và tuy giữa chúng có ranh giới rạch ròi (“Tác phẩm hoàn toàn không mâu thuẫn với mọi loại triết học nhất nguyên”, với loại triết học này, “tính đa bội là cái Ác tầm thế giới”, trong khi đó Văn bản, “trái ngược với tác phẩm”, có thể chọn lời quỷ ám làm châm ngôn (Phúc Âm của Mark, 5, 9): “Légion là tên ta, vì chúng ta rất đông”. Văn bản đối lập với tác phẩm bởi “cấu trúc đa bội, ma quỷ của nó”[70], sự tồn tại của ranh giới ấy chính là để khắc phục nó. Vận động từ tác phẩm đến Văn bản (trải rộng, tán phát, nới lỏng tác phẩm thành các mạch ngữ nghĩa) tất yếu kéo theo sự đối lập – vận động từ Văn bản về tác phẩm, trong đó, “chất khởi nguyên” của văn bản biến thành tác phẩm-hình thứcVăn bản biến thành văn bản.

TỪ “THÔNG DIỄN HỌC BẤT TẬN” ĐẾN THI PHÁP HỌC

Giờ đây ai cũng rõ, bên dưới cái nhãn “tính liên văn bản” do J. Kristeva tạo ra, chí ít, ngay từ đầu đã ẩn chứa hai hiện tượng khác nhau: thứ nhất: nó là“Văn bản” theo cách hiểu của Barthes, thứ hai: nó là “liên văn bản” theo nghĩa riêng.

Cách giải thích của Barthes – nghiêng về phía hoà liên văn bản vào Văn bản, còn tính liên văn bản hoà tan vào tính liên diễn ngôn – làm nẩy ra vấn đề. Chính vì Văn bản là món “lẩu” phi định dạng do vô thức văn hoá tạo ra, là “khu vực lỏng lẻo của những định thức vô danh” mà nguồn gốc của chúng thường khó xác định,- chính vì nguyên nhân như thế, nên bản thân việc “đọc” Văn bản không thể là một cái gì khác ngoài hành vi ít nhiều tuỳ tiện, tự do, khi người đọc thường nắm bắt và nâng cao tính tích cực của “những mảnh ngôn ngữ xã hội khác nhau”, “những mẩu nhỏ của các loại mã”, “những mô hình tiết tấu” v.v… tuỳ thuộc vào nhãn quan văn hoá và vốn tri thức (thường xuyên thay đổi trong suốt cuộc đời), tâm trạng (thường chỉ thoáng qua), sở thích, liên tưởng mang tính chủ quan.

Nhưng nếu như thế, thì Văn bản theo định nghĩa của Barthes không thể trở thành đối tượng của mọi phương pháp phân tích, thành đối tượng của môn khoa học nào đó, vả lại, ngay từ đầu, Barthes đã tự thấy rất rõ: “Đọc văn bản chỉ là hành vi một lần (vì thế, mọi thứ khoa học quy nạp – diễn dịch về các văn bản chỉ là ảo tưởng)”[71]. “Không thể viết bất kì một thứ “luận văn” nào khả về khoái cảm văn bản: khoái cảm chỉ tạo ra được cái nhìn vào bản thân mang tính tức thời (nội quan)[72] (Không phải ngẫu nhiên, dù có rất nhiều ưu điểm, tác phẩm S/Z tuyệt vời của Barthes vẫn đích thị chỉ là hiện tượng “một đi không trở lại” (“hapax”) – một “hành vi” phê bình văn học cực đoan, các nhà nghiên cứu văn học “bình thường” chắc chắn không thể vận dụng phương pháp luận của nó vào thực tiễn).

Nhưng nếu đã vậy, thì để nghiên cứu Văn bản bất tận chỉ có thể sử dụng “thông diễn học bất tận” (so sánh với “sự phân tích bất tận” của Freud), loại thông diễn học được Nietzsche tiên đoán: “Chắc là với chúng ta, một lần nữa, thế giới lại trở nên “bất tận”, vì chúng ta không đủ sức để gạt bỏ khả năng là nó bao hàm trong bản thân những diễn giải bất tận” (“Khoa học vui”, № 374: “Cái bất tận mới của chúng ta”). Và nếu như mục đích của loại thông diễn học này không phải là “tri thức” thiết thực, không phải là “chân lí”, thậm chí cũng không phải là “sự hợp nhất của các nhãn quan” (như trong giải thích học của H.G. Gadamer), mà chỉ là sự di chuyển liên tục điểm nhìn của người đọc, xáo trộn khối lượng văn bản để không cho nó ngưng kết, thì rõ ràng là trong trường hợp này, sự diễn giải tối ưu chính là sự diễn giải sẽ mở ra con đường cho những cách diễn giải ngày càng mới hơn.

Ta hiểu vì sao vào năm 1973, sau khi in bài có tính cương lĩnh “Văn bản (lí thuyết văn bản)” trong “Encyclopædia universalis”, dù chính Barthes đã bổ sung  cho bản thân vấn đề liên văn bản vị thế chính thức, nhưng với những ai muốn xác định rạch ròi các khái niệm “văn bản” và “tính liên văn bản”, lí thuyết ấy vẫn đòi hỏi phải đưa ra giới thuyết chặt chẽ.

Ngay trong các công trình của Kristeva, khái niệm “văn bản” đã được mở rộng tối đa. Khi Kristeva định nghĩa tính liên văn bản như là “sự tương tác liên văn bản diễn ra bên trong một văn bản nào đấy”, sự tương tác này giúp ta hiểu “các phân đoạn (hay các mã) khác nhau của một cấu trúc cụ thể nào đó như những biến thể của các phân đoạn (hay các mã) rút ra từ các văn bản khác”, thì, tuy chưa đạt tới khối lượng Văn bản theo cách hiểu của Barthes,  “tính liên văn bản như thế” vẫn bao trùm – gần như tổng quan – tất cả phạm vi “các hệ thống kí hiệu”, “các thực tiễn kí hiệu học” và “các tổ chức văn bản”, vì nó trực tiếp dựa vào “phương thức mà văn bản sử dụng để đọc lịch sử và hoà hợp với lịch sử”[73].

Chẳng hạn, trong Văn bản tiểu thuyết, Kristeva xác định tính liên văn bản của cuốn tiểu thuyết trung đại Jehan bé nhỏ ở Saintre như là sự gặp gỡ của bốn bộ phận liên văn bản hợp thành: mã triết học kinh việnmã phong lưu hào hiệp (hình tượng Quý Bà và truyện phong tình hiệp sĩ), mã ngôn ngữ vỉa hè (“tiếng la hét” của các thương gia, biển hiệu đường phố), mã carnaval (nhục thể, tình dục, tiếng cười, mặt nạ)[74]. Nhưng rõ ràng, những mã vừa kể ra đây (với toàn bộ hiệu quả phân chia của nó) không phải là các văn bản trong ý nghĩa chặt chẽ của từ ấy, mà kiểu như là  các “cổ mẫu” văn hoá xã hội mà ta có được bằng con đường khái quát trừu tượng hoá vô số văn bản cụ thể mà những cổ mẫu này là các phiên bản của chúng.

Ta hiểu vì sao, bắt đầu từ bài Chiến lược hình thức (1976) của Laurent Jenny, mọi nỗ lực của phần đông các nhà nghiên cứu đều hướng vào chỗ: thứ nhất, thu hẹp và cụ thể hoá các khái niệm “văn bản” và “tính liên văn bản”, phân rõ ranh giới tính liên văn bản và liên diễn ngôn v.v…; thứ hai: xác định rõ ràng các nhiệm vụ của lí thuyết liên văn bản, tăng cường cho nó tính hiệu quả.

Từ góc độ như thế, chí ít có ba nhiệm vụ đang được đặt ra trước lí thuyết về tính liên văn bản:

1. Giới hạn chính đối tượng của lí thuyết liên văn bản, loại lí thuyết không cần phát hiện sự gọi tên theo kiểu liên tưởng – chủ quan các ý nghĩa, mà cần phát hiện các mối liên hệ trực tiếp, hiển nhiên và có thể chứng minh giữa các văn bản, tức là giữa các trường hợp có sự dịch chuyển ít hay nhiều một văn bản này sang văn bản khác: “Chúng tôi đề nghị,- Jenny viết – chỉ nói về tính liên văn bản khi chúng ta có thể phát hiện trong văn bản này hay văn bản khác những yếu tố đã từng được tổ chức ngay từ trước khi nó xuất hiện”;

2. Nghiên cứu bình diện quan hệ của lí thuyết liên văn bản – đó là “tổng thể các quan hệ với những văn bản khác được tìm thấy bên trong văn bản” (vấn đề văn bản trong văn bản);

3. Đưa chiều kích sáng tạo, “chuyển đổi” liên văn bản lên bình diện thứ nhất: mệnh đề “tổng hoà các quan hệ với những văn bản khác” trong trường hợp này sẽ không có nghĩa là sự cộng gộp hay đặt cạnh nhau một cách cơ học, mà là sự xử lí, tinh chế tích cực: tác phẩm-liên văn bản sẽ kéo toàn bộ tập hợp các văn bản được nó hấp thụ vào một đầu mối ý nghĩa thống nhất – làm như thế để, một mặt, chúng không triệt tiêu lẫn nhau, mặt khác, để tác phẩm như một chỉnh thể cấu trúc không bị rã ra: “Liên văn bản không phải là sự tích tụ những tác động khác nhau một cách hỗn loạn và vô nghĩa lí, mà là hoạt động biến đổi và đồng hoá vô số văn bản do văn bản – hạt nhân trung tâm – loại văn bản luôn giành về phía mình vai trò leadership[75] ngữ nghĩa – thực hiện”[76].

Tất nhiên, với sự thu hẹp bản thân đối tượng của lí thuyết liên văn bản như thế, lí thuyết liên văn bản sẽ đánh mất qui mô ngữ nghĩa và cơ sở triết học sâu xa từng có ở Kristeva và Barthes, nhưng thay vào đó, nó sẽ tìm thấy ngay dưới chân mình nền đất vững chắc của những chứng cớ xác thực.

Tuy nhiên, ở đây lại xuất hiện một vấn đề khác – vấn đề phân định ranh giới giữa lí thuyết liên văn bản và một loại lí thuyết cũ (rất đáng kể) miêu tả lịch sử văn học qua các thuật ngữ “truyền thống”, “cách tân” (“sự độc đáo” của cá nhân, ở phía này, và “ảnh hưởng”, “vay mượn”, ở phía khác), gọi là lí thuyết nguồn cội (nguồn gốc học).

Với cách tiếp cận như vậy, nhiệm vụ chính của nhà lịch sử văn học sẽ là, thứ nhất, phát hiện (theo khả năng) tất cả các văn bản có ảnh hưởng tới một tác phẩm nào đó của một tác giả nào đó, bằng cách ấy, thứ hai, “lí thuyết nguồn cội” sẽ xác lập mối quan hệ nhân – quả giữa những tác phẩm có trước và những tác phẩm xuất hiện sau – phát hiện căn nguyên cá nhân của văn bản, nguồn gốc của nó từ một văn bản khác ra đời sớm hơn, thứ ba, nó dứt khoát phải chú ý tới kí ức cá nhân,  ít nhiều có ý thức của nhà văn (Nhà văn đã đọc gì? Tủ sách của anh ta quy mô thế nào? Sở thích văn học của nhà văn ấy ra sao? v.v…[77]) và, cuối cùng, thứ tư, nó yêu cầu phải làm thế nào để cái nguồn gốc cần tìm kiếm phải cụ thể và ổn định, sao cho có thể nhận ra nó ở mức độ chắc chắn và chính xác cao.

Căn cứ vào những điểm như thế, lí thuyết liên văn bản về cơ bản khác với “lí thuyết nguồn cội”.

1. Khái niệm liên văn bản “nằm ngoài” cặp đối lập truyền thống/cách tânảnh hưởng/độc đáo v.v…: “Mọi sự tìm kiếm “nguồn gốc” và “ảnh hưởng” phù hợp với huyền thoại về dòng dõi, huyết thống của các tác phẩm, còn văn bản lại được hình thành từ những đoạn trích vô danh, khó nắm bắt và đồng thời đã được đọc[78]. Nói cách khác, dừng lại ở việc theo dõi con đường từ nguồn gốc đến tác phẩm, khoa nguồn gốc học gạt khỏi tầm nhìn của mình không chỉ quan hệ đối thoại  giữa bản thân các văn bản, mà còn cả các quan hệ đối thoại giữa các văn bản và các diễn ngôn xã hội (mối quan hệ vượt xa ra ngoài khuôn khổ của những “ảnh hưởng” thông thường và tồn tại bên trên các rào cản biên niên).

2. Theo đó, tính liên văn bản bao trùm một phạm vi rộng hơn so với quan hệ nguyên nhân – di truyền giữa các tác phẩm.

3. Lĩnh vực này không thuộc về kí ức cá nhân tác giả, mà thuộc về kí ức tập thể của văn học.

4. Với lí thuyết về tính liên văn bản, bản thân liên văn bản không phải là tập hợp những đoạn trích “nhỏ”, những dẫn liệu, hồi ức hỗn độn, mơ hồ, mà là không gian hội tụ của những trích dẫn đủ mọi kiểu. Đoạn trích, kết dán các đoạn trích… chỉ là trường hợp cá biệt của trích dẫn mà đối tượng của nó không phải là những lời, những câu, những đoạn riêng lẻ được vay mượn từ những văn bản khác, mà là bản thân các văn bản mà tổng thể của chúng sẽ tạo thành trường văn học.

Nhưng nếu điều đó đúng là như vậy, thì sẽ có khả năng xác định đối tượng của lí thuyết liên văn bản chính xác hơn. Tuy sử dụng phương pháp luận tối ưu, nhưng nguồn gốc học tuyệt nhiên không phải là một phương pháp luận độc lập nào đó; ở khía cạnh này, nó hoàn toàn lệ thuộc vào thứ phương pháp luận do lịch sử văn học sáng tạo ra, “lí luận nguồn gốc” chính là khoa lịch sử – văn học.

Ngược lại, học thuyết về tính liên văn bản có thể, đúng là, có tham vọng thực sự trở thành một môn khoa học lí thuyết đặc biệt – liên văn bản học (đặc biệt, nếu nhắc tới các định nghĩa mà các tác giả như L. Jenny và G. Genette đã đưa ra vào những năm 1970[79]), còn bản thân liên văn bản học, môn khoa học ngày càng thiên về việc phát hiện các quy luật phổ quát của sự tương tác liên văn bản, hoàn toàn có thể xem là bộ phận hợp thành của thi pháp học với đối tượng là những “quy luật chung của sự kiến tạo tác phẩm văn học”[80].

Từ góc độ ấy, có lẽ cần phải đọc cuốn sách của Nathalie Piégay-Gros, thiết nghĩ, đây là công trình nghiên cứu phân tích – tổng quan mang tính khái quát đầu tiên ở Pháp dành cho liên văn bản học như một phần của thi pháp học vừa xuất hiện ngay trước mắt chúng ta[81].

Trong cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm cho tới tận bây giờ về vị thế lí thuyết của tính liên văn bản,- cuộc tranh luận mà trong đó người ta đã tung ra nhiều quan điểm cực đoan, thậm chí quá đáng  nhất, Nathalie Piégay-Gros giữ lập trường trung dung, cơ sở vững chắc của lập trường này là sự thật hiển nhiên: không gian văn hoá – đó là địa điểm tương tác và định hướng lẫn nhau của các văn bản, trong đó bất kì văn bản nào cũng sẽ được đọc như là sản phẩm hấp thụ và chuyển đổi của vô số văn bản khác. Tư tưởng cốt lõi đem lại sự sắc sảo đầy hấp dẫn và sức cuốn hút cho toàn bộ sự trình bày của cuốn sách là câu hỏi được cất lên thế này: rốt cuộc, liên văn bản là cái gì? Nó là “sản phẩm của lối viết” (tức là ý hướng của tác giả, cố tình hay vô tình) hay là “hiệu quả của sự đọc” tuỳ thuộc vào năng lực của mỗi chúng ta trong việc nối kết các cấp độ ngữ nghĩa khác nhau tạo thành không gian văn hoá?

Người dịch: Lã Nguyên

Nguồn: Г.К Косиков.- Текст/Интетекст/Интетекстология//Н. Пьеге-Гро.- Введение в теорию интетекстуальности/Общ. Ред. и вступ. Ст. ГК Косикова пер. с фр. Г.К.  Косикова,  Б.Н. Нарумова, В. Ю. Лукасик.- М.: Изд. ЛКИ, 2008, с 8-42.


[1] Xem: J. Kristeva. – Bakhtine, le mot, le dualogue et le roman // Critique, № 239, avril 1967.

[2] J. Kristeva.- Une poétique ruinéee // Bakhtine M. La poétique de Dostoïevski. – P.: Seuil, 1970.

[3] J. Kristeva.- Semeiotikē. Recherches pour une sémanalyse. – P.: Seul, 1969.

[4] J. Kristeva.- Le texte du roman. – La Haye, Mouton, 1970.

[5] Xin xem: Ph. Sollers.- Ecriture et révolution // Théorie d’ensemble. – P.: Seuil, 1968.

[6] R. Barthes.– S/Z. – P. : Seuil, 1970.

[7] R. Barthes.- De l’oeuvre au texte // Revue d’esthétique, 1971, # 3.

[8] R. Barthes.- Texte (théorie du) // Encyclopædia Universalis, 1973.

[9] R. Barthes.- Le Plaisir du texte. – P.: Seuil, 1973.

[10] Vào nửa sau của những năm 60 ở thế kỉ trước, Kristeva mới chỉ tiếp xúc với bốn công trình của Bakhtin: 1. M.M. Bakhtin.- Những vấn đề thi pháp Dostoevski, M., “Nhà văn Xô viết”, 1963; 2. M.M. Bakhtin.- Sáng tác của François Rabelais và nền văn hoá dân gian trung cổ và Phục hưng, M., “Văn học nghệ thuật”, 1965; 3. V.N. Volosinov (Bakhtin M.M.).- Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ. Những vấn đề cơ bản của phương pháp xã hội học trong khoa học về ngôn ngữ, L., “Priboi”, 1929); 4. P.N. Medvedev (M.M. Bakhtin).- Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học. Dẫn luận phê bình thi pháp xã hội học.- L., “Priboi”, 1928.

[11] Các trích dẫn rút từ cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski đều được lấy từ xuất bản phẩm: M.M. Bakhtin.- Những vấn đề thi pháp Dostoevski// M.M. Bakhtin.- Tuyển tập, bộ 7 tập, T.6, M., 2002. Số trang để trong ngoặc đơn.

[12] M. Bakhtin thường sử dụng kết hợp từ này một cách linh động, chẳng hạn, trong hàng loạt trường hợp, ông phân biệt rạch ròi “đối thoại” và “phức điệu”, nhưng ở một loạt trường hợp khác, ông lại xem đó như những phạm trù đồng nghĩa.

[13] “Trong con người bao giờ cũng có một cái gì đó, cái mà bản thân nó chỉ có thể bộc lộ trong hành vi tự nhận thức và lời nói toàn tự do, cái không cho phép xác định nó theo kiểu ngoại hình hoá từ phía bên ngoài” (tr. 69).

[14] “Lời thực tế của “người khác” cũng bị cuốn vào vòng vận động perpetuum mobile như tất cả những lời thoại của người khác được đoán trước. Nhân vật đòi hỏi một cách độc đoán ở lời nói ấy sự thừa nhận tuyệt đối và sự khẳng định bản thân, nhưng đồng thời nó không chấp nhận sự thừa nhận và khẳng định ấy, bởi vì ở đó, nó là phương diện yếu ớt, thụ động: dễ hiểu, được tiếp nhận và bị bỏ qua. Niềm kiêu hãnh của nó không thể chấp nhận điều đó” (tlđd, tr. 282).

[15] “Chân lí về thế giới, theo Dostoevski, không tách rời của cá nhân”.- Tlđd,  tr. 89.

[16] Xem: “<…> Không có các phạm trù nhân quả và nguồn gốc trong tư duy của Dostoevski”.- Tlđd, tr. 38.

[17] “Từ đó nảy sinh cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ của các sắc thái trong từng khu vực ngữ nghĩa của tồn tại. Trong thành phần nghĩa, không hề có những gì đứng bên trên sự hình thành, những gì độc lập với sự mở rộng biện chứng nhãn quan xã hội. Xã hội đang hình thành mở rộng sự tiếp nhận của mình đối với tồn tại đang hình thành. Trong quá trình ấy, không có gì ổn định tuyệt đối’.- V.N. Volosinov (M.M. Bakhtin) Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ. Những vấn đề cơ bản của phương pháp xã hội học trong khoa học về ngôn ngữ.- L.: “Priboi”, 1929. Tr. 108.

[18] Đọc thêm: “Gần như không xẩy ra bất kì sự hình thành các quan điểm mới, hay tư tưởng nào dưới ảnh hưởng của chất liệu mới. Mọi chuyện chỉ tập trung vào việc lựa chọn, việc giải quyết vấn đề – “tôi là ai?”, “tôi với ai?”. Tìm thấy giọng nói của mình và định hướng cho nó giữa các giọng nói khác, kết hợp nó với các giọng này, đối lập nó với các giọng khác, hoặc chia tách giọng của mình với giọng của người khác mà nó hoà lẫn vào đó – nhiệm vụ mà các nhân vật phải giải quyết trong suốt cuốn tiểu thuyết là như thế”.- M.M. Bakhtin.- Những vấn đề thi pháp Dostoevski, tr. 267.

[19] “Phạm trù cơ bản của cái nhìn nghệ thuật ở Dostoevski không phải là sự hình thành, mà là sự song tồn và tương tác. Ông nhìn thấy và suy ngẫm thế giới của mình theo ưu thế trong không gian, chứ không phải trong thời gian, và nếu, ví như, Goethe, người hoàn toàn nghiêng về “trật tự đang hình thành”, muốn cảm nhận tất cả xung đột hiện có như “những giai đoạn khác nhau của một sự phát triển thống nhất nào đó, muốn nhìn thấy dấu vết của quá khứ, đỉnh cao của thời đại hay khuynh hướng của tương lai trong mỗi hiện tượng của cái hiện thời”, thì đối lập với Goethe, Dostoevski lại muốn cảm nhận những giai đoạn ấy trong tính cùng thời của chúng, so sánh, đối lập chúng một cách đầy kịch tính, chứ không định kéo dài chúng trong “trật tự đang hình thành”.- Tlđd, tr.36.

[20] Trò chuyện với Julia Kristeva// “Đối thoại. Carnaval. Chronotop”, 1995, số 2, tr. 7.

[21] M.M. Bakhtin có thái độ hết sức thận trọng với cái vô thức. Năm 1961, ông nhận xét: “Dostoevski đã đưa cái nhìn thẩm mĩ vào sâu bên trong, vào những tầng vỉa sâu xa mới, nhưng không phải vào tầng sâu của vô thức, mà vào chỗ cao – sâu của ý thức. Các chiều sâu của ý thức đồng thời cũng là những đỉnh cao của nó <…>  Ý thức lớn tuổi hơn rất nhiều so với tất cả các phức hợp vô thức”.- M.M. Bakhtin.- Tuyển tập. T.5, M., 1996, tr. 345-346.

[22] Trò chuyện với Julia Kristeva, tr. 6.

[23] J. Kristeva.- Lời, đối thoại và tiểu thuyết// J. Kristeva.- Tác phẩm chọn lọc: Một nền thi pháp học sụp đổ. M., 2004, tr. 167.

[24] “<…>  Tư tưởng mang tính liên cá nhân và liên chủ thể, phạm vi tồn tại của nó không phải là ý thức cá nhân, mà là giao tiếp đối thoại giữa các ý thức. Tư tưởng đó là sự kiện sống động nổi lên ở điểm gặp gỡ đối thoại giữa hai hoặc một số ý thức”.- M.M.Bakhtin.- Những vấn đề thi pháp Dostoevski//M.M. Bakhtin.- Tuyển tập. T.6, tr. 99.

[25] J. Кristeva.- Lời, đối thoại và tiểu thuyết// J. Kristeva.- Tác phẩm chọn lọc. Tr. 167.

[26]Tlđd, tr. 180, 186.

[27] Kristeva.- Một nền thi pháp học sụp đổ// Kí hiệu học Pháp: Từ chủ nghĩa cấu trúc đến hậu cấu trúc luận. M., “Tiến bộ”, 2000, tr. 472.

[28] Xem cách V.S. Soloviev phân tích ví dụ này: V.S. Soloviev.- Tư tưởng của nhân loại ở Auguste Comte// V.S. Soloviev.- Tác phẩm, bộ 2 tập. T. 2, – М., 1990, tr. 568-569.

[29] S.L. Frank.- Tác phẩm. M., 1990, tr. 228.

[30] “Tinh thần thống nhất, đang hình thành biện chứng được hiểu theo kiểu Hegel không thể sinh ra cái gì, ngoài độc thoại triết học. Tính đa bội của những ý thứ khác biệt chỉ có thể đơm hoa kết trái ít nhất trên mảnh đất của chủ nghĩa duy tâm nhất nguyên”.- M.M. Bakhtin.- Những vấn đề thi pháp Dostoevski// M.M. Bakhtin.- Tuyển tập. T. 6. Tr.34.

[31] J. Derrida.- Lập trường.- Kiev, 1996, tr. 17

[32] Tlđd., Tr. 17 – 18.

[33] F. Saussure.- Những công trình nghiên cứu ngôn ngữ học. M., “Tiến bộ”, 1977, tr. 148.

[34] V.N. Volosinov.- Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ. Tr. 81.

[35] Như trên, tr. 103.

[36] J. Derrida.- La différance// Théorie d’ensemble.- P.: Seuil, 1968, p. 51.

[37] J. Derrida.- Lập trường.- Kiev, 1996, tr. 98.

[38] J. Derrida.- De la grammatologie.- P.: minuit, 1967,p. 321.

[39] J. Derrida.- L’ẻciture et la différence.- P.: Seuil, 1967, p. 42.

[40] Xin so sánh với cặp đối lập của M.M. Bakhtin: hoặc là sự “hài hoà vĩnh hằng của những giọng nói không thể trộn lẫn”, hoặc là “cuộc tranh luận bất tận và vô vọng của chúng” (M.M. Bakhtin. – Những vấn đề thi pháp Dostoevski//M.M. Bakhtin. – Tuyển tập, T. 6, tr. 39).

[41] J.-F. Lyotard.- Trả lời câu hỏi: hậu hiện đại là gì?// Ad Marginem, 93.- M,: Ad Marginem, 1994, tr. 323.

[42] R. Barthes.- S/Z.- M.: Ad Marginem, 1994, tr. 14-15.

[43] G. Deleuze, G. Guattari.- Rhizom.- P.: Minuit, 1976.

[44] Trong tiểu luận Khoái cảm từ văn bản của R. Barthes có một hình ảnh truyền cảm về sự tiếp cận có khả năng tạo ra hiệu quả khiêu dâm như thế: “Thực ra, kĩ thuật viên điện ảnh chỉ cần ghi lại lời nói của con người từ cự li rất gần, cho phép cảm nhận được hơi thở, vết rạn chân chim, những chỗ mấp mô mềm mại trên bờ môi con người, bản thân sự hiện hữu của gương mặt trong toàn bộ tính vật chất, nhục thể của nó (lối viết cũng như giọng nói cần phải mang tính trực tiếp, dịu dàng, ướt át, phủ đầy những mụn li ti giật giật giống như mõm động vật) cũng đủ  khiến cho cái được biểu đạt nhanh chóng mất hút ở đâu đó trong cõi xa xăm, nhưng, có thể nói, thanh âm phát ra từ toàn bộ cơ thể người nghệ sĩ vô danh vẫn dội vào tai tôi: có một cái gì đó run rẩy, nhức buốt, râm ran, vuốt ve, mơn trớn – một cái gì đó thật khoái lạc” (R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc: Kí hiệu học. Thi pháp học.- M., “Tiến bộ”, 1989, tr. 518).

[45] Theo cách hiểu Văn bản như thế, rõ ràng là cần phải phân biệt với cả cách hiểu thông thường (“một lời nói bất kì được ghi lại”.- Từ điển tiếng Nga của S.I. Ozegov), lẫn cách hiểu của giới ngôn ngữ – kí hiệu học (“văn bản là trình tự các đơn vị kí hiệu” có hai thuộc tính cơ bản: “tính mạch lạc” và “tính chỉnh thể”.- Từ điển bách khoa ngôn ngữ. M.: “Bách khoa xô viết”, 1990, tr. 507.  Xem thêm: “Văn bản là trình tự lời nói khẩu ngữ hoặc văn viết tạo thành một đơn vị giao tiếp”.- O. Ducrot, J.-M. Schaeffer.- Dictionnaire encyclopédique des sciences du langage. – P. : Seuil, 1995, p. 494.

[46] Lí thuyết Văn bản tương ứng với những khái niệm được M.M. Bakhtin đưa ra vào những năm 1960 như sau: “mạng lưới văn bản” không ngừng lớn lên, mỗi khâu của nó là một phát ngôn cụ thể; “ngữ cảnh đối thoại” chưa hoàn kết và “thời đại lớn” của văn hoá. Xin đọc: “Thế giới văn hoá và văn học thực chất cũng vô thuỷ vô chung giống như vũ trụ. Chúng ta nói <…> về những chiều sâu ngữ nghĩa mà chúng cũng vô đáy giống như chiều sâu của vật chất”, nơi “từng lời (từng kí hiệu) của văn bản vượt ra ngoài giới hạn của nó”, bởi vậy “chỉ ở điểm tiếp xúc của các văn bản mới loé lên ánh sáng chiếu rọi cả phía sau lẫn phía trước”, không cho phép đụng vào cái “đáy” ngữ nghĩa, đặt ra “điểm chết”. “Không thể có nghĩa duy nhất (đơn nhất). Cho nên, không thể có nghĩa đầu tiên và nghĩa cuối cùng, nó bao giờ cũng nằm giữa các nghĩa, là một khâu trong mạng lưới ngữ nghĩa mà chỉ mình nó trong chỉnh thể của mình mới có thể trở thành hiện thực. Trong đời sống lịch sử, mạng lưới đó phát triển đến vô tận, và vì thế, từng khâu riêng lẻ của nó lại không ngừng tiếp tục đổi mới tựa như được tái sinh”.- M.M. Bakhtin.- Tuyển tập,T.6, tr. 399, 423, 424, 410.

[47] S.S. Averinsev.- Hai lần sinh hạ của chủ nghĩa duy lí châu Âu// S.S. Averinsev.- Tu từ học và cá nguồn gốc truyền thống văn học châu Âu.– M.: Các ngôn ngữ văn hoá Nga, 1996, tr. 329-332.

[48] Xin đọc: “Không có lời đầu tiên, không có lời cuối cùng và không có ranh giới của ngữ cảnh đối thoại (chúng đã đi về phía quá khứ vô hạn và về tương lai vô cùng). Thậm chí cả những ý nghĩa thuộc về quá khứ, tức là chúng được sinh ra trong cuộc đối thoại ở những thế kỉ đã qua, cũng không thể ổn định (không thể nhất thành bất biến, hoàn kết, xong xuôi) – chúng bao giờ cũng sẽ thay đổi (đổi mới) trong tiến trình phát triển của cuộc đối thoại tiếp theo, trong tương lai. Ở thời điểm phát triển nào của đối thoại cũng tồn tại một khối lượng vô hạn những nghĩa bị bỏ quên, nhưng ở các thời điểm đối thoại cụ thể tiếp sau đó, trên đường đi của nó, chúng sẽ được nhớ lại và hồi sinh trong một dạng mới (ngữ cảnh mới). Chẳng có gì chết tuyệt đối: mỗi ý nghĩa đề có ngày hội phục sinh của mình”.- M.M. Bakhtin.- Tuyển tập, T. 6, tr. 434-435.

[49] S.S. Averinsev.- Tlđd., tr. 329.

[50] Về khái niệm “tác phẩm”, xin xem: J. Derrida.- Lực và nghĩa// J. Derrida.- Lối viết và sự khác biệt.- Spb., 2000; R. Barthes.- Từ tác phẩm đến văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc: Kí hiệu học. Thi pháp học.- M.: Tiến bộ, 1989.

[51] Cặp đối lập này chí ít có nguồn cội từ Anaximandre. Trong các công trình của Anaximandre, “vật chất” là cái “vô giới hạn” (apeiron), có một bản thể xuất phát, “chất khởi nguyên”, một “hỗn hợp” (migma) phong phú và bất tận, một lực lượng sản xuất sẽ dẫn tới sự xuất hiện (sau đó sẽ biến mất trong lòng cái “vô giới hạn) vạn vật cụ thể. Tương tự như thế, ở Platon, hoàn cảnh khởi nguyên – “khora” – hoạt động như là “nguyên nhân hỗn loạn” của vạn vật. “Khora” như vốn dĩ  – “vô hình thù” và “bao chứa vô lượng” – là một “bộ mặt thiên hình vạn trạng” (nếu “những tiềm năng của nó không tương tự như nhau, không quân bình với nhau và bản thân nó trong từng bộ phận của mình không thăng bằng với nhau”, thì những tiềm năng ấy sẽ làm nó lung lay và rung chuyển và rồi chính nó cũng sẽ chao đảo do sự vận động của mình”). Platon so sánh “khora”, “bà đỡ của mọi sự sinh hạ”, với kim loại nóng chảy mà người ta có thể đúc thành những hình thù khác nhau (Platon.- Timaios, 48a – 53b).

[52] R. Barthes.- Texte (théorie du)// R. Barthes.-  Œuvres complètes. T. II.- P.: Seuil, 1994, tr. 1683.

[53] R. Barthes.- Từ tác phẩm đến văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc: Kí hiệu học. Thi pháp học, tr. 415.

[54] R. Barthes.- Texte (théorie du) tr. 1685.

[55] R. Barthes.- Khoái cảm văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 490.

[56] Như trên.- tr. 484, 473.

[57] R. Barthes.- Bài giảng// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 556.

[58] R. Barthes.- Khoái cảm văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 473; 466-467.

[59] Như trên, tr. 487, 463.

[60] Tiếng Pháp: “Langage encratique”. Theo R. Barthes, trong tương quan với quyền lực, ngôn ngữ chỉ có hai phương án lựa chọn: hoặc là hùa theo nó, hợp tác với nó, hoặc là chống lại nó, cự tuyệt nó, không thể có thứ ngôn ngữ trung tính. Barthes gọi loại thứ nhất, loại hùa theo quyền lực “langage encratique”, loại thứ hai, chống lại quyền lực là “langage acratique”.- ND.

[61] R. Barthes.- Khoái cảm văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 595.

[62] Như trên, tr. 494.

[63] Barthes viết rằng, bộ tuyển tập như thế hết sức đơn giản và thực chất được tạo nên từ bảy-tám cuốn “sách giáo khoa” ảo mà một học sinh giỏi bao giờ cũng nắm chắc nếu được tiếp thu hệ thống giáo dục tư bản mẫu mực: “Lịch sử Văn học (Byron, Nghìn lẻ một đêm, Ann Radcliffe, Homer) Lịch sử Nghệ thuật (Michelangelo, Raphael, kì quan Hy Lạp), giáo khoa Lịch sử (thời đại Louis thế kỉ XV), giáo trình Y học Thực hành giản yếu (bệnh tật, sức khoẻ, tuổi già), luận văn Tâm lí học (tâm lí học tình yêu, tâm lí học đạo đức), kí sự Phong tục (trong phiên bản tiếng La Tinh, tức là phiên bản theo đạo đức Kitô, hoặc chủ nghĩa khắc kỉ), hướng dẫn Lôgic học (lôgic tam đoạn luận) và Tu từ học cùng bộ sưu tập tục ngữ, thành ngữ về sự sống, cái chết, tình yêu, đau khổ, đàn bà, lứa tuổi v.v…” .- R. Barthes.- S/Z.- M.: ad Marginem, 1994, tr. 226-227.

[64] R. Barthes.- S/Z., tr. 227.

[65] Như trên, tr. 32-33.

[66] R. Barthes.- Khoái cảm văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 491.

[67]Như trên, tr. 490-491.

[68] “Ngữ cảnh. Mã. Ngữ cảnh tiềm tàng tính không hoàn kết: Mã cần phải hoàn kết. <…> Mã <-> là ngữ cảnh thu hẹp, được xác lập một cách cố ý”.- M.M. Bakhtin.- Tuyển tập, T.6, tr. 431.

[69] Xin xem bài phân tích truyện ngắn của Borges: R. Lakhman.- Kí ức và sự tổn thất của thế giới// Nghiên cứu văn học Đức hiện nay.- Spb. Tổng hợp Peterburg, 2001.

[70] R. Barthes.- Từ tác phẩm đến văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 418.

[71] R. Barthes.- Từ tác phẩm đến văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 418.

[72] R. Barthes.- Khoái cảm văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 489.

[73] J. Kristeva.- Problèmes de la structuration du texte // Théorie d’ensemble. – P.: Seuil, 1968 , p. 311.

[74] Xem: J. Kristeva.- Văn bản tiểu thuyết// J. Kristeva.- Tác phẩm chọn lọc: Một nền thi pháp học sụp đổ.- M., 2004.

[75] Tiếng Anh: “chỉ huy”, “lãnh đạo”.- ND.

[76] L. Jenny.- La stratégie de la forme// Poétique, 1976, № 27, p. 262-267.

[77] G. Lanson.- Phương pháp trong lịch sử văn học.- M., 1911.

[78] R. Barthes.- Từ tác phẩm đến văn bản// R. Barthes.- Tác phẩm chọn lọc, tr. 418.

[79] Xem: G. Genette.- La litérature au second degré.- P.: Gallimard, 1982

[80] B.V. Tomasevski.- Lí luận văn học. Thi pháp học.- M., 1996, tr. 25.

[81] Tức là cuốn: Nathalie Piégay- Gros.- Introduction à l’intertextualite.- Paris, 1996 (Н. Пьеге-Гро. Введение в теорию интертекстуальности, do G.K. Kosikov, V.Iu. Lucasik và B.P. Narumov dịch ra tiếng Nga, M., 2008).- ND.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

LỊCH SỬ HỘI HOẠ:HÌNH ẢNH CỦA TỰ DO VÀ CÁI GIỐNG VỚI TỰ DO

Maxim Kantor

Trần Đình Sử dịch

Làm sao giải thích được một sự thật rằng, trong thế kỷ của chúng ta, khi tự do đã trở thành tôn giáo của con người thì hình ảnh con người đã trở nên méo mó, không hài hoà và mất đi nét nhân tính?
Chúng ta để lại album ảnh cho con cháu với hy vọng hình ảnh của chúng ta sẽ có ý nghĩa cho thế hệ mai sau. Trong lịch sử thế giới, vai trò của một cuốn album ảnh gia đình như vậy được thể hiện bởi nghệ thuật mỹ thuật. Ngay cả khi không có bằng chứng nào khác, chỉ có những bức chân dung và tác phẩm điêu khắc, thì chỉ cần nhìn lướt qua các tác phẩm của thế kỷ trước cũng đủ để nói: thế giới đã rơi vào tình trạng suy tàn, và con người cũng đang sa đọa.
Từ những tác phẩm điêu khắc của Donatello, từ những bức tranh của Bellini, chúng ta biết được con người thời Phục hưng Ý là người như thế nào, anh ta di chuyển như thế nào, mỉm cười ra sao; anh ấy là một người cực kỳ thú vị. Dựa trên những bức tranh của Goya, người ta có thể biên soạn một bộ bách khoa toàn thư về các nhân vật của Tây Ban Nha những năm đó - có nhiều loại khác nhau, nhưng đây là thời đại của những con người đam mê và xinh đẹp. Từ phim hoạt hình của Daumier, chúng ta biết đến sự xuất hiện của một người Paris trong thời đại các cuộc cách mạng tư sản - người nghệ sĩ đã cười nhạo những trò hề của những kẻ phàm tục, nhưng ông cũng vẽ một bức chân dung chân thực về giai cấp thứ ba.
Các bậc thầy của các thế kỷ trước - Durer, Leonardo, Lebrun, Hogarth - coi sứ mệnh của họ là để lại bằng chứng về con người của thời đại họ: họ dành các chuyên luận để nghiên cứu tỷ lệ khuôn mặt và xác định các kiểu cá nhân. Và chúng ta có thể tái hiện lại diện mạo của con người các thế kỷ trước dựa trên bằng chứng của các nghệ sĩ.
Nếu bạn tưởng tượng một hậu duệ xem qua một cuốn album chân dung gia đình của nhân loại, hậu duệ đó ​​sẽ há hốc mồm khi bước đến cuối thế kỷ XX.
Thật khó để tin rằng con người ở thế kỷ 20 lại có một vết thâm thay vì khuôn mặt, một chiếc mũi mọc ra từ tai và không có mắt. À, tất nhiên, người ta thường chấp nhận rằng việc bóp méo được thực hiện để truyền tải kịch tính. Nếu đúng như vậy thì sự biến dạng sẽ phản ánh đỉnh điểm của bi kịch: chẳng hạn, vào lúc tuyệt vọng, nhân vật của Malevich có một vết nhơ thay vì khuôn mặt, và trong những khoảnh khắc bình yên, những nét hài hòa xuất hiện.
Nhưng không, mãi mãi một vết đốm thay vì một khuôn mặt - vết đốm không phải là đối trọng, vết đốm là một hằng số thẩm mỹ. Sự biến dạng không nắm bắt được sự thanh lọc; ngược lại, sự biến dạng bây giờ là sự hài hòa. Nếu vào đầu thế kỷ, hình ảnh giống người mẫu thì vào một phần ba thế kỷ cuối, việc bóp méo hình ảnh con người đã trở thành chuyện bình thường. Bất cứ ai không bóp méo các đặc điểm của một người (hoặc không xóa chúng đi) đều không được coi là nghệ sĩ hiện đại; Họ cho rằng ông bị quyến rũ bởi nét thẩm mỹ lỗi thời và chưa tìm được con đường đi vào thời hiện đại.
Và quả thực, những người đổi mới đã phá hủy hình ảnh thông thường: giai cấp tư sản của mọi thời đại thích những bức chân dung bóng bẩy, nịnh nọt - và những người theo chủ nghĩa Lập thể, Biểu hiện và Siêu thực đã bóp méo diện mạo của con người.
Khi Picasso được hỏi tại sao lại bóp méo các nét trên khuôn mặt, họa sĩ trả lời (ám chỉ những khách hàng tư sản): “Tôi làm họ sợ!” Nhưng chúng ta đang nói về một điều khác, không phải về việc nghệ sĩ gây sốc cho giai cấp tư sản hào nhoáng, hủy hoại vẻ ngoài của họ (Lautrec, Picasso, Grosse và Dix đã làm điều này), mà là về việc vẻ bề ngoài đã biến mất hoàn toàn. Bạn có thể bóp méo, tức là sửa đổi, một đối tượng tồn tại, nhưng bạn không thể thay đổi thứ gì đó không tồn tại về nguyên tắc.
Để hiểu sinh vật đó là nhân mã, sự kết hợp giữa người và ngựa, người ta phải có ý tưởng về người và ngựa; nhưng nếu không có ý tưởng như vậy thì nhân mã là không thể. Protagoras nói: Con người là thước đo của vạn vật; nhưng nếu không có người thì sao?
Trong những gì đã nói, người ta có thể thấy sự tố cáo tính hiện đại, nhưng không có sự tố cáo. Các tác phẩm nghệ thuật hiện đại đều gây sốc, tuy nhiên, cú sốc này mang tính chất khác, không phải cú sốc mà người xem trải qua khi chiêm ngưỡng những hình ảnh có nét giống mình.
Nhưng bây giờ không có đặc điểm nào có thể nhận biết được. Chà, có lạ không: chúng ta đã trở nên tốt hơn, tự do hơn, khỏe mạnh hơn, chúng ta sống lâu hơn, nhưng khuôn mặt của chúng ta đã biến mất ở đâu đó. Không cần nhắc đến nhiếp ảnh (người ta nói nhiếp ảnh đã thay thế mỹ thuật), đây là những hoạt động khác nhau cơ bản: nhiếp ảnh để lại hình ảnh máy móc, còn mỹ thuật tạo ra hình ảnh dựa trên khuôn mặt con người.
Một hình ảnh trong nghệ thuật không giống một con người theo nghĩa đen, nó không phải là một bản sao; hình ảnh được tạo ra theo tiêu chuẩn về hình dáng con người và Thần thánh, và sau đó chúng dừng lại.
Hãy coi đây là một câu hỏi ngây thơ của một hậu duệ khôi phục lại phả hệ của gia đình: tại sao một người lại bị mất mặt ở thế kỷ 20? Có lẽ những thử thách đã làm méo mó diện mạo của con người trong thế kỷ XX, nhưng liệu những thử thách đó có đặc biệt so với bệnh dịch và Chiến tranh Trăm Năm? Trong trận dịch hạch, một phần ba dân số châu Âu đã chết, nhưng nỗi kinh hoàng không ảnh hưởng đến việc con người được vẽ đẹp như vậy.
 
Nhưng cách đây 50 năm, hình ảnh con người phương Tây đã bị bóp méo đến mức không thể sửa chữa được. Nếu chúng ta nhớ rằng con người được tạo ra theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, người ta sẽ cảm thấy khó chịu – khuôn mặt của Đấng Tạo Hóa bị biến dạng. Các nghệ sĩ để lại những bức chân dung như một ký ức của con người, nhưng qua những bức chân dung, nghệ thuật của các nước có nền văn hóa Thiên chúa giáo nói về Đấng Tạo Hóa, Đấng đã thổi sức sống vào những hình ảnh; người xem luôn nhớ rằng các nhân vật của tác phẩm giống Chúa.
Bạn sẽ làm gì với thực tế là các hình ảnh điêu khắc của Henry Moore thường thiếu chân tay và các hình thức tổng quát của Arp nhìn chung không có các đặc điểm nhân hình? Chúng ta không nói về những biến dạng của Michelangelo, không phải về những tỷ lệ bị bóp méo của El Greco, mà về tính dẻo dai kiêu kỳ của Cosimo Tura, về những gì được miêu tả như thể đó là một loại sinh vật khác, không phải là những người đồng tính. Làm thế nào để giải thích tại sao các tác phẩm điêu khắc của Giacometti thực tế không có cơ thể?
Những tác phẩm sắp đặt của Beuys, những hình vuông bằng gang của Carl Andre, những khối sắt của Richard Serra có ý nghĩa gì? Đó không phải là một con người được miêu tả mà là thế giới nội tâm của anh ta? Nhưng chúng ta biết từ triết học phương Tây rằng cơ thể là hình ảnh phản chiếu của tâm hồn.
Phải chăng Thiên Chúa của Kitô giáo ngày nay đã bóp méo những nét nhân tính của mình và trở nên giống biểu tượng của các bộ lạc nguyên thủy? Và nếu chúng ta bỏ qua cuộc thảo luận về Chúa, thì câu hỏi vẫn là về lịch sử xã hội của chúng ta, điều mà chúng ta muốn ghi nhớ. Bằng cách bóp méo diện mạo của con người, các nghệ sĩ đã đảo ngược quá trình tiến hóa xã hội.
Nghệ thuật, cùng với những thứ khác, đã phản ánh một cách tỉ mỉ những thay đổi của xã hội, sự thay đổi địa vị của công dân trong xã hội.
Tượng David đứng ở Quảng trường Piazza della Signoria sẽ tồn tại trong nhiều thế kỷ như một đại diện cho nền cộng hòa và quyền công dân. Tư thế thẳng và tư thế đầu kiêu hãnh, ánh mắt cởi mở, vầng trán cao - đây là những đặc điểm mà tác phẩm điêu khắc đã lấy lại được từ chế độ nô lệ và bất bình đẳng. David không thừa nhận sự bất bình đẳng và vô trách nhiệm, anh ấy có trách nhiệm với xã hội và đây là một xã hội bình đẳng.
Có thể nói, hình ảnh con người trở nên thẳng thắn hơn theo từng thế kỷ - con người xuất hiện như một sinh vật ngày càng toàn diện và ngày càng ít phụ thuộc vào môi trường.
Chúng ta thấy những đám rước nô lệ giống như con kiến ​​chạy dọc theo bàn chân của vị pharaoh uy nghi và xinh đẹp, nhưng một ngày nọ, hình dáng của những nô lệ trở nên to lớn hơn và những nô lệ phát triển các đặc điểm trên khuôn mặt. Nếu bạn so sánh những nô lệ kiêu hãnh của Michelangelo và những nô lệ không thể phân biệt được trong lăng mộ của các pharaoh, bạn sẽ thấy ý tưởng về giá trị sự tồn tại của con người đã thay đổi như thế nào. Chúng ta biết vị vua vĩ đại, nhân hậu của Mesopotamia, Hammurabi, nhưng khi so sánh vị vua này với tác phẩm điêu khắc Marcus Aurelius đứng trên Đồi Capitol, chúng ta thấy rằng ý tưởng về quyền lực và sứ mệnh của nó đã thay đổi.
Chúng ta biết rằng dần dần hình tượng điêu khắc về con người được tách ra khỏi mặt phẳng của bức tường, bức phù điêu biến thành tác phẩm điêu khắc hình tròn, con người có được vị thế độc lập và bình đẳng về tỷ lệ. Pharaoh và nhà vua không còn áp đảo những người phàm trần bằng quy mô của họ, và phẩm giá của con người bắt đầu thể hiện ở chỗ anh ta ngang bằng với quyền lực hiện có. Một người xem hiện đại, quen thuộc với tư thế thẳng thắn của các quan chấp chính La Mã và sự tồn tại hài hòa của các vận động viên và các vị thần Hy Lạp, có thể khôi phục lại bản chất luật lệ của xã hội đã để lại những tác phẩm điêu khắc này.
Vào thời Rodin, thế giới phương Tây đã vững chắc với ý tưởng về một nhân cách hài hòa đến mức không ai nhận ra sự phi lý trong “Người suy nghĩ” của Rodin - nói chung, để suy nghĩ, bạn không cần phải suy nghĩ. cởi quần ra, và tư thế của người suy nghĩ (gác cằm lên tay) không phù hợp với thân hình trần trụi, vạm vỡ, dành cho thể thao và thú vui tình yêu.
Rodin - đóng vai Michelangelo của xã hội tư sản - miêu tả sự kết hợp kỳ lạ giữa quyền công dân và chủ nghĩa khoái lạc cực đoan, các nữ thủy thần khỏa thân được cho là thể hiện sự thuần khiết của ý tưởng cộng hòa, và giới tư sản Paris nhận thấy sự kết hợp này là tự nhiên.
Sự nhại lại sự cộng sinh của Michelangelo giữa sự hài hòa cổ xưa và niềm đam mê trong Cựu Ước không làm người đương thời thích thú; trái lại, nó có vẻ tự nhiên.
Rõ ràng, các tác phẩm điêu khắc của Rodin đã trở thành một loại đỉnh cao của nền văn minh phương Tây, đỉnh cao đạt được quyền tự do và thú vui dân sự, ý tưởng cuối cùng về sự hài hòa của nghệ thuật Cơ đốc giáo. Sau đó, quá trình đếm ngược bắt đầu, hình tượng trong nghệ thuật phương Tây bắt đầu mất đi nét tiêu biểu, bị tháo dỡ, mất đi ý nghĩa, sức hấp dẫn và tính cân xứng.
Quá trình phá hủy hình ảnh diễn ra nhanh chóng, thậm chí người ta có thể nói rằng hình ảnh đã bị loại bỏ, quay trở lại giai đoạn của một biểu tượng thông thường, một thần tượng phổ quát, một kouros ngoại giáo, mà nó đã xa rời bấy lâu nay.
Nếu chúng ta không tính đến các tác phẩm điêu khắc trong công viên (một quy chuẩn đã từng được thiết lập và không thay đổi kể từ thế kỷ 18, bất kể miêu tả một người phụ nữ với mái chèo hay một đại cử tri người Đức), thì tác phẩm điêu khắc và chân dung đã thay đổi hoàn toàn: một người không còn giống người nữa.
Và theo đó, ý tưởng về xã hội nơi sinh sống của những sinh vật kỳ lạ khó chịu này đã bị bóp méo.
Con cháu của chúng ta sẽ có ý tưởng gì về cấu trúc xã hội và cư dân của nó khi nhìn vào các tập hợp của Cesar? Con cháu của chúng ta học được gì về cấu trúc xã hội khi nhìn vào điện thoại di động của Calder? Một người trong tương lai sẽ nghĩ gì về các nguyên tắc đạo đức của chúng ta nếu đối tượng của Arman là hiện thân của họ? Hãy để tôi nhấn mạnh một lần nữa: không có lời buộc tội nào trong vấn đề này - chỉ có sự tò mò.
Những điều trên sẽ không đáng được xem xét (bạn không bao giờ biết nghệ thuật thay đổi như thế nào - nghệ thuật thở ở nơi nó muốn), nếu không xét đến khía cạnh triết học thiết yếu của vấn đề. Làm sao giải thích được sự thật rằng trong thế kỷ của chúng ta, khi “tự do” đã trở thành tôn giáo của con người thì hình ảnh con người đã trở nên xấu xí, bất hòa và mất đi nét nhân tính?
Đây là một câu hỏi cực kỳ đau đớn, vì chỉ có một câu trả lời duy nhất: nếu niềm tin vào Chúa buộc người ta phải tái tạo những nét hài hòa của Đấng Tạo Hóa, thì niềm tin vào tự do buộc người ta phải tái tạo những nét đặc trưng của tự do, và do đó, tự do là xấu xí. Tất nhiên, không ai muốn nghe một câu trả lời như vậy.
Trong cuộc đối thoại “The Symposium”, Plato chứng minh rằng Eros có những đặc điểm xấu xí vì anh ta tìm kiếm tình yêu và sự hòa hợp, và vì anh ta tìm kiếm chúng, nên bản thân anh ta không sở hữu chúng, và do đó, sự xuất hiện của vị thần tình yêu là xấu xí. Nếu chúng ta áp dụng lý luận này vào hiện tượng tự do, thì có thể lập luận rằng vì tự do tìm kiếm một sự phát triển hài hòa vẫn chưa được biết đến, nên do đó, bản thân tự do không sở hữu sự hài hòa này, và do đó, tự do không có một số đặc điểm và tính chất nhất định, nó không có khuôn mặt nào cả.
Lý do này có thể phù hợp với chúng ta, nhưng hãy thử nói điều này với những người sắp chết vì tự do, những người đã được gọi đến các chướng ngại vật ngày hôm nay. Sẽ vô cùng xúc phạm nếu hiến mạng sống của mình cho một thứ không có khuôn mặt, cho một thứ không tồn tại, cho một ảo ảnh.
Tất nhiên, chúng ta biết rằng các chính trị gia đang lừa dối chúng ta, nhưng nếu nói rằng quyền tự do mà chúng ta phải cống hiến cả cuộc đời mình là một trò ảo thuật có lẽ là quá đáng. Niềm đam mê tự do đã trở thành một loại tôn giáo, một giáo phái xã hội mới, nhưng không thể tin vào một điều chưa xảy ra. Nếu người ta giải thích cho quần chúng rằng họ nhiệt thành tin tưởng vào một điều gì đó chưa được thể hiện ra thì những người biểu tình sẽ khó chịu. Chúng tôi chắc chắn tin rằng tự do là điều được quy định cụ thể trong hiến pháp. Và do đó, không thể cho rằng tự do như một thực tế không tồn tại và mặt nó bị u ám.
Phải nói rằng chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, các nghệ sĩ lại xác định tự do là mục tiêu sáng tạo của mình. Chỉ đến nửa sau thế kỷ XX mới nảy sinh khẳng định rằng nghệ thuật là bài học về tự do mà bậc thầy dạy cho người xem. Ngày nay quan điểm này được chấp nhận như một sự thật bất di bất dịch. Nhà thơ Brodsky đã viết rằng văn học (nên hiểu rộng hơn: tính sáng tạo nói chung) là “con gái của tự do”, và nhà khái niệm luận Kabkov đảm bảo rằng bài học duy nhất mà nghệ thuật mang lại là “bài học về tự do”. Và điều đó nghe có vẻ tuyệt vời. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, người ta đã cho rằng nguyên nhân của sự sáng tạo hoàn toàn không phải là tự do mà trái lại là một loại nghĩa vụ đạo đức.
Nghệ thuật ra đời nhằm tôn vinh Thiên Chúa, bày tỏ tình yêu hay lòng thương xót, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cuộc sống, tôn vinh sự vĩ đại của quê hương hay sự vĩ đại của thiên nhiên. Tự do cá nhân chưa bao giờ không chỉ là mục tiêu của nghệ thuật mà thậm chí còn là sản phẩm phụ. Vị thế riêng biệt của Doryphorus hay David không tượng trưng cho sự tự do và độc đáo của người anh hùng này mà là việc trở thành công dân của xã hội, nguyên tắc lưng thẳng của một công dân, bảo vệ Tổ quốc.
Vincent Van Gogh sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng ông đã trở thành biểu tượng của một nghệ sĩ tự do, trước hết ông là một người chăm chỉ thề sẽ phục vụ nhân dân, tôn vinh mọi nông dân ở Nuenen, mọi thợ mỏ ở Borinage. Nghệ thuật không và chưa bao giờ có mục tiêu đặc biệt là tôn vinh tự do cá nhân, nhưng mục tiêu này đã được hình thành cách đây không lâu. Việc xây dựng đã trở thành một niềm đam mê và sự giải phóng khỏi sứ mệnh xã hội và các quy luật, nhưng chủ yếu là khỏi hình thức, khỏi các đặc điểm nhân hình.
Quyền tự do thoát khỏi dịch vụ công cộng (một triển vọng có vẻ hấp dẫn) chắc chắn phải loại bỏ nghệ thuật tạo hình khỏi nghệ thuật. Thực tế là tính dẻo là ý tưởng về một hình thức duy nhất hợp nhất các mảnh vỡ thành một tổng thể; tính dẻo có thể được ví như một ý tưởng xã hội, ý tưởng xây dựng nhà nước. Chủ thể và đối tượng sẽ tồn tại như vậy chỉ trong các mối quan hệ - trên thực tế, nguyên tắc “kiến thức là so sánh” của Nicholas of Cusa giải thích cho chúng ta theo cách tốt nhất có thể ý tưởng dẻo là gì: ngoài nghĩa vụ xã hội thì không có hình thức nào cả. 
Chấp nhận nguyên tắc tự do hoàn toàn có nghĩa là xóa bỏ hình thức. Và nghệ thuật thời hậu chiến của châu Âu đã siêng năng xóa bỏ hình thức.
Vào thế kỷ 20, một ý tưởng đã nảy sinh, về cơ bản là mới đối với toàn bộ nền mỹ học phương Tây, rằng nghệ thuật là phương tiện để tôn vinh tự do cá nhân; nhưng tự do cá nhân không thể thể hiện qua các hình thức thẩm mỹ xã hội. Vì vậy, nghệ thuật đã từ bỏ tính dẻo; Một bước đi hợp lý là việc loại bỏ hình ảnh nhân hình.
Nghệ thuật đã xóa bỏ hình mẫu; từ nay trở đi nó không được dẫn dắt bởi một vị Chúa mà bởi nhiều vị thần khác. Khái niệm trừu tượng về tự do đã thay thế Thiên Chúa cụ thể, và từ nay hình ảnh trong nghệ thuật bắt đầu được tạo ra theo hình ảnh và sự giống với tự do.
Điều này đã dẫn đến những điều kỳ quặc của nghệ thuật hiện đại - tự do có thể tự biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nó ấy không thể chỉ có một thứ - có những đặc điểm con người nhất định. Những đặc điểm nhân hình, hay chính xác hơn là thần thánh, con người đã biến mất khỏi hình ảnh.
Con người của thế kỷ XX đã đấu tranh cho tự do và quyền lợi của mình lâu đến mức anh ta đã giải phóng bản thân một cách hoàn toàn, trọn vẹn, kể cả khỏi hình ảnh và thân xác của mình; anh ta được giải phóng khỏi mối liên hệ với Chúa và truyền thống, với nguồn gốc và văn hóa, anh ta trở nên vô hình. Tự do hoá ra trống rỗng.
Tự do bất ngờ lấn át nghệ thuật; Mới hôm qua, các nhà điêu khắc đã cố gắng truyền tải sự hài hòa của các đặc điểm, nhưng sau đó họ bắt đầu điêu khắc những điểm dị thường, và sau đó ngừng điêu khắc hoàn toàn. Sự việc xảy ra đột ngột nên người gác tàu chuyển tàu sang đường ray khác. Điều này xảy ra vào thời điểm thế giới (chủ yếu là phương Tây) có chiến tranh kéo dài, làm lung lay mọi quan niệm về mục đích của lịch sử, chiến tranh cũng xóa bỏ hình ảnh con người.
Nhân vật của các tác phẩm điêu khắc dần mất đi nét con người, và nếu bây giờ tác phẩm của bậc thầy trở nên sống động thì đó sẽ không phải là Galatea xinh đẹp mà là Frankenstein hay Golem. Những bộ phim giả tưởng của thời đại chúng ta có rất nhiều cốt truyện trong đó điều đáng kinh ngạc và kinh tởm nhất xuất hiện trong cuộc sống - hoặc được đưa đến trái đất của chúng ta từ thế giới khác hoặc được bảo tồn từ thời điểm khác. Đây chính xác là những gì đã xảy ra trong nghệ thuật thị giác, và đây là cuộc sống của chúng ta, không phải khoa học viễn tưởng.
Nếu một tác phẩm nghệ thuật là bằng chứng về chúng ta, con người, thì những sinh vật xấu xí và khủng khiếp, những kẻ khốn nạn và tàn dư chính là chúng ta. Và khi bạn thấy mình ở Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, có vẻ như bạn đã thấy mình trong một bức tranh của Bosch nơi sinh sống của những linh hồn ma quỷ, những con chimera không thể tưởng tượng được. Với Bosch, điều đó gần như giống như vậy, nhưng ngược lại theo một cách khác. Và với những người theo chủ nghĩa siêu thực, điều đó gần như giống nhau, nhưng ngược lại, theo một cách khác. Và trong các thánh đường, nơi hình ảnh các chimera được đặt bên cạnh các vị thánh (trên nóc Nhà thờ Đức Bà, bạn sẽ tìm thấy cả một nhà thờ), nó gần như giống nhau, nhưng khác nhau. Và sự khác biệt là cơ bản.
Bosch (và sau ông là Bruegel, Goya và những người theo chủ nghĩa siêu thực) đã trình chiếu vở kịch về sự biến con người thành quái vật; nguyên lý thiêng liêng vẫn là một khuôn mẫu, nhưng con người đã bị biến đổi, bị thời gian làm biến dạng; Bosch đã ghi lại quá trình đấu tranh để giữ thể diện của con người. Trong các bức tranh chính của ông (“Vác Thập Giá”, “Chế nhạo Chúa Kitô”), chúng ta thấy khuôn mặt xinh đẹp của Đấng Cứu Rỗi, hài hòa và giản dị, được bao quanh bởi những chiếc cốc và mõm - Bosch cho thấy rõ ràng cách mọi người không còn là con người, nhưng ông cũng nói với chúng ta rằng đây là một sự chuyển đổi - xấu.
Tôi xin lưu ý rằng nhà siêu thực người Bỉ James Ensor đã áp dụng nguyên tắc đối lập của Bosch bằng cách miêu tả bức chân dung tự họa của ông giữa những chiếc mặt nạ tại một lễ hội hóa trang, đây chính xác là cùng một dòng suy nghĩ. Nhà thờ thời Trung cổ đã đuổi những con chimera quái dị ra ngoại vi - nó đặt những con quái vật trên mái nhà và tường, cống thoát nước được làm từ hình chimera và tượng đầu thú, và quái vật không được phép vào bên trong ngôi đền. Tuy nhiên, theo thời gian, những sinh vật xấu xí của Bosch bắt đầu tấn công và thay thế hoàn toàn nguyên tắc của con người; chimeras trèo xuống từ mái nhà thờ và chiếm lấy ngôi đền, trục xuất hình ảnh của Chúa ra khỏi đó.
Trong bacchanalia điên cuồng này, chiến thắng hoàn toàn của sự sáng tạo tự do của nghệ thuật phương Tây (từng là Cơ đốc giáo, và bây giờ là ngoại giáo) đã diễn ra. Vì vậy, ai đó khi xem một cuốn album gia đình không thể tìm thấy những nét đặc trưng của gia đình David của Michelangelo trong các hình khối và đường nét ngoằn ngoèo; những tính năng này không có ở đó. Điều chủ yếu xác định nghệ thuật phương Tây cũng đã biến mất - tinh thần bi kịch đã biến mất khỏi nghệ thuật hiện đại. Thực tế là bi kịch vốn chỉ có trong một hình ảnh sống động, bởi vì không thể hy sinh, chết chóc và trải qua đau buồn nếu không có được sự tồn tại trọn vẹn.
Chỉ có thước đo đầy đủ của sự tồn tại, sự kết nối thông qua các đặc điểm nhân cách hóa với kế hoạch và sự hài hòa của Thần thánh, chỉ có điều này mới khiến người ta có thể trải nghiệm sự hủy diệt như một bi kịch, như sự bất hòa. Và nếu không có sự hòa hợp của Thiên Chúa thì sẽ không có bi kịch.
Các tác phẩm điêu khắc của Moore, Giacometti, Marini, Brancusi, Caldera, Cesar - và đây chỉ là những gián đoạn đầu tiên, sau đó hình ảnh biến mất hoàn toàn - không có nghĩa là người thật, chúng là hình ảnh của một con người trừu tượng, một con người nói chung; nó là sự miêu tả một hiện tượng của con người.
Camus từng nói câu cay đắng “Con người không phải là một thứ trừu tượng”; Điều này được nói ra bất chấp tính thẩm mỹ của tự do trừu tượng lúc bấy giờ; Camus đã nói điều này trong “The Plague”, nơi ông mô tả từng cái chết cụ thể là gì. Nhưng con người trừu tượng không biết đến kịch tính, con người trừu tượng không thể chết và trải nghiệm sự phấn chấn của bi kịch.
Sartre nhớ lại việc Giacometti bị một chiếc ô tô đâm ở Place d'Italie ở Paris. Nằm trong bệnh viện với một chân bị gãy, nhà điêu khắc lặp lại: “Cuối cùng, một điều gì đó thực sự đã xảy ra với tôi”.
Người tạo ra hàng trăm hình ảnh về một con người trừu tượng ngưỡng mộ ý tưởng rằng anh ta đang trải qua nỗi đau cụ thể và kịch tính cụ thể; thông qua một bài kiểm tra cơ bản, anh ấy đã đến với một hình ảnh sống động.
Các nghệ sĩ của thế kỷ 20 muốn tạo ra một con người giống như Nữ thần Tự do - họ đã tạo ra một con người trừu tượng không có khuôn mặt hoặc tiểu sử. “Walking” của Giacometti, “Riders” của Marino Marini, tác phẩm điêu khắc của Henry Moore - đây không phải là những bức chân dung của những người đương thời, không phải hình ảnh của các vị thần, đây là những biểu tượng gợi nhớ đến con người; người ta thậm chí có thể dùng từ “thần tượng”, nghĩa là trong các viện bảo tàng nghệ thuật hiện đại, những hình ảnh này được tôn thờ như những khối năng lượng của tự do.
Người xem thế kỷ 20 có một điều phải ngạc nhiên: trong toàn bộ lịch sử nghệ thuật, những hình ảnh chưa bao giờ được tạo ra với động cơ chính là xuống cấp và phá hủy - trong tất cả các bảo tàng nghệ thuật hiện đại, chúng chủ yếu thể hiện sự không phải rác rưởi và hỗn loạn, mà là bi kịch, tuy nhiên, điều đó không xảy ra. Người xem không cảm thấy có điều gì đó tồi tệ đã xảy ra. Để so sánh, các tác phẩm điêu khắc của Michelangelo chắc chắn thể hiện sự kịch tính - chúng ta đồng cảm với Đức Mẹ trong Pietà hay người nô lệ sắp chết; trong các tác phẩm sắp đặt của các bậc thầy đương đại, nơi các đồ vật bị bóp méo để truyền tải sự hỗn loạn của thế kỷ, không có kịch tính.
Và tại thời điểm này, một câu hỏi triết học cấp tiến thứ hai được đặt ra, dành cho thế giới hiện đại: phải chăng sự vắng mặt của bi kịch trong nghệ thuật xấu xí hiện đại có nghĩa là tự do hoàn toàn loại trừ bi kịch? Đã có lúc Nietzsche cho thấy bi kịch được sinh ra từ tinh thần hòa hợp, từ tinh thần âm nhạc như thế nào; phải chăng điều này có nghĩa là sự thiếu hài hòa đã xóa bỏ khái niệm bi kịch khỏi tự do?
Ví dụ về mỹ thuật ngày nay buộc chúng ta phải xem xét hai loại tự do thúc đẩy con người hoạt động.
Những nghệ sĩ tự gọi mình là những nhà nhân văn (Picasso, Böll, Grosz, Chagall, Sartre, Hofer) đã đấu tranh cho quyền tự do của con người cụ thể chống lại cái ác cụ thể; nhưng các nghệ sĩ của thời hiện đại (cái mà chúng ta gọi là nghệ thuật hiện đại) đấu tranh trong điều kiện hòa bình vì tự do nói chung, vì tự do cá nhân như một lý tưởng, vì tự do thoát khỏi thuyết định mệnh.
Thật dễ dàng để xác định một thời điểm trong thế kỷ qua khi tự do cá nhân và lý tưởng về tự do công cộng khác nhau. Đây là năm 1968, thời điểm diễn ra cuộc nổi dậy của Tiệp Khắc, tình trạng bất ổn của sinh viên ở Paris, các rào chắn ở Sorbonne và sự từ chức của de Gaulle.
Những cuộc cách mạng nửa vời kỳ lạ này, những cuộc nổi dậy với những yêu cầu mơ hồ, cực kỳ quan trọng - nhưng thật khó để xác định chính xác tầm quan trọng của chúng là gì. Đó là sự đòi hỏi tự do, nhưng loại tự do nào thì chưa rõ; rất có thể, đó là yêu cầu giải phóng khỏi lịch sử chung, khỏi tính tất định của quá trình lịch sử, yêu cầu giải phóng khỏi cả Hegel và Hiệp ước Warsaw, khỏi mọi nghĩa vụ đối với xã hội.
Nhìn lại thì Mùa xuân Praha được hiểu là một cuộc nổi dậy chống lại chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng đây là một cách giải thích không chính xác; đó chính xác là mùa xuân, nhu cầu nở hoa, quyền có niềm vui độc lập, khát vọng hạnh phúc bất chấp nghĩa vụ hàng xóm; Trên đường đi, sự giả dối đẫm máu của Gulag đã được thêm vào - cuộc nổi dậy ở Praha, có thể nói, là một cuộc nổi dậy nói chung, nở rộ và tươi đẹp, chống lại thuyết định mệnh và vì sự độc lập của sự tồn tại cá nhân. Tương tự, thật khó để nói sinh viên Pháp muốn gì - khẩu hiệu “Cấm cấm” thể hiện điều gì khác ngoài cương lĩnh của cuộc nổi dậy.
Proto-Maidan này, Euromaidan năm 1968, Proto-Bolotnaya Square - đã hét lên về điều tương tự mà cuộc nổi dậy của chủ nghĩa triết học tự do đang kêu gào ngày nay: chúng tôi muốn tự do cá nhân! Chúng tôi không quan tâm đến sự cần thiết lịch sử! Chúng tôi không muốn sự đạo đức giả và tính toán từ các chính trị gia! Chúng tôi muốn quyền tự quyết! Khi chính phủ cố gắng đạt được thỏa thuận với những người nổi dậy, những nỗ lực này đã bị phá vỡ bởi cùng một trở ngại như trong các cuộc đối thoại của chính phủ với các cuộc biểu tình ngày nay - không thể tranh cãi với một người không có tiền án nào khác ngoài việc không sẵn sàng chịu trách nhiệm. hướng tới xã hội.
Đó là một cuộc nổi loạn chống lại lịch sử, chống lại những món nợ của đất nước, chống lại con đường bắt buộc, và đó là một phản ứng muộn màng trước cuộc tàn sát thế giới. Cơ thể mệt mỏi của bọn trẻ không chịu nổi sự căng thẳng của câu chuyện, chúng òa khóc.
Điều này xảy ra với trẻ em: mệt mỏi với những trò chơi và mệnh lệnh của người lớn, chúng đột nhiên rơi vào trạng thái kích động và bắt đầu hành động mà không rõ lý do. Đây chính xác là kiểu cuồng loạn trẻ con đã xảy ra ở châu Âu vào năm 1968, ở Paris và Praha.
Năm nay không phải được tổ chức một cách ngẫu nhiên mà là một năm cách mạng quan trọng; nó đánh dấu sự xuất hiện của một kiểu cách mạng mới - một kiểu cách mạng không gắn liền với những ý tưởng về lợi ích công cộng. Đây hoàn toàn không phải là cuộc cách mạng năm 1848 lan rộng khắp châu Âu; hoàn toàn không phải làn sóng cách mạng của những năm hai mươi đã hình thành nên các nước cộng hòa Xô Viết từ Gilan đến Vladivostok, từ Alsace đến Bremen. Hoàn toàn ngược lại. Đó là làn sóng nổi dậy chống lại thuyết định mệnh lịch sử và đòi quyền tự do cá nhân, không phụ thuộc vào ai.
Chúng tôi không muốn một mục đích chung! Chết tiệt cái lịch sử chung của bạn!
Khi Sartre cố gắng động viên công nhân nhà máy Renault đình công (ông đến phát biểu, ông tưởng tượng ra một bước chuyển hướng sang chủ nghĩa xã hội), ông tin chắc rằng không ai muốn thay đổi xã hội vì lý do cơ bản là không ai muốn xã hội. Họ muốn tự do, nhưng họ muốn tự do trừu tượng, và những lời hoa mỹ mang tính xã hội thật đáng sợ.
Việc không thể có một liên minh giữa đảng xã hội chủ nghĩa và các phong trào tự do của sinh viên đã giải thích phần lớn cách hiểu của người châu Âu về giải phóng - những người trẻ tuổi không muốn thay đổi chút nào.
Nghĩa là, họ muốn những thay đổi, và thậm chí là những thay đổi căn bản, họ lật ngược ô tô và hoan nghênh việc vẽ tranh phi khách quan, nhưng những thay đổi này không phải là bản chất cuối cùng mà chỉ đơn giản là ồn ào. Thanh thiếu niên không muốn trở thành thành viên của xã hội tư sản, nhưng họ cũng không muốn trở thành thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa. Họ dựng rào chắn và nói về tự do, nhưng ngay khi thảo luận về chương trình, họ trở nên giận dữ: nói chung chúng tôi muốn tự do!
Chán ngấy với bất kỳ quyết định luận nào! Nhưng bạn vẫn muốn một loại xã hội nào đó – hãy nói cho tôi biết cái gì? Câu hỏi này làm tôi khó chịu: đủ mị dân rồi! Con đường châu Âu đã chạm vào bức tường tự do cá nhân. Đứa trẻ làm theo hướng dẫn một lúc lâu, đột nhiên bật khóc và bắt đầu ném đồ vật - không ai có thể xoa dịu cơn cuồng loạn. Bọn trẻ mệt mỏi với mọi thứ cùng một lúc: cha mẹ, chính phủ, lịch sử, quá khứ. Cuộc nổi dậy tự do chống lại xã hội đã trở thành cơ sở cho sự từ chức của nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của châu Âu lúc bấy giờ - Tướng de Gaulle (từ chức năm 1969), và cuộc nổi dậy tư sản này đã trở thành hình mẫu cho tất cả các cuộc cách mạng màu của thế kỷ tiếp theo.
Năm đó họ đã nêu ra vấn đề cốt lõi trong các cuộc cách mạng sau này: từ nay trở đi là cuộc nổi dậy của giới tinh hoa, và lần đầu tiên trong lịch sử các phong trào giải phóng, cách mạng không nghĩ đến lợi ích chung và cách mạng không có những nhu cầu cụ thể có tính chất xã hội (lương hưu, giáo dục, chăm sóc y tế, điều kiện làm việc). Tất cả những điều trên đều không quan trọng, bản thân xã hội không quan trọng, bất kỳ thỏa thuận nào cũng không quan trọng - họ không nổi loạn vì lợi ích xã hội và nhu cầu của nó. Họ nổi dậy chống lại thuyết định mệnh của lịch sử.
Từ thời điểm này, một cuộc cách mạng đặc biệt đã bắt đầu, không phải xã hội mà là thẩm mỹ, làm thay đổi ý thức phương Tây một cách nghiêm túc hơn nhiều so với “Tuyên ngôn” của Marx. Tự do đã chiến thắng nhưng không có chính trị gia nào nghĩ đến xã hội.
Một câu châm ngôn phổ biến là bạn sẽ không gặp được những nhà lãnh đạo tầm cỡ như bạn đã gặp trong chiến tranh hoặc ngay sau đó. Các nhà lãnh đạo châu Âu đã bị nghiền nát vì lý do giống hệt như việc cuộc cách mạng không còn là một cuộc cách mạng, và tác phẩm điêu khắc, vốn mang tính anh hùng và nhân hình, đã trở thành vật trang trí và vô nghĩa.
Nhà lãnh đạo phương Tây từ nay trở đi chỉ còn là tàn tích trơn tuột như những tác phẩm điêu khắc của Hans Arp, cùng một chiếc chong chóng thời tiết như những chiếc điện thoại di động của Alexander Calder, cùng một kẻ ngốc nghếch cứng đầu như những tuyến hạch của Anselm Kiefer. Và điều này đúng đến mức sự xuất hiện của Marcus Aurelius hay Lorenzo de' Medici tương ứng với các bức tượng của họ.
Lịch sử và thẩm mỹ không thể bị lừa dối; Những gì đã xảy ra ở châu Âu hoàn toàn giống với kịch bản của cuộc nổi dậy đòi tự do năm 1968. Bạn đã quyết định từ bỏ quá khứ và tuyên bố một vụ vỡ nợ lịch sử?
Bây giờ có gì đáng phàn nàn? Con người trừu tượng đạt được tự do trừu tượng - và mất thể diện. Những đặc điểm của một nhân cách tự do đã bị xóa bỏ, và cá tính của anh ta đã bị phá hủy.
Đây là một nghịch lý của văn hóa: vì chính nghệ thuật ngày nay được coi là đỉnh cao của sự độc lập cá nhân, chiến thắng của chủ nghĩa cá nhân. Chưa hết, nghệ thuật này không tạo ra một bức chân dung nào: trước mắt chúng ta là một con người tự do và do đó không tồn tại.
Người ta nói rằng khi Georges Pompidou chuyển đến văn phòng của de Gaulle, trước hết ông đã loại bỏ khỏi đó tất cả các thuộc tính của sự cai trị của tướng quân: hội họa cổ điển, tác phẩm điêu khắc, v.v. Một bức tranh trừu tượng của de Stael đã được lắp trên tường, đánh dấu một nét thẩm mỹ mới (hay còn gọi là xã hội) chuyển sang sự tự thể hiện cá nhân, tự do. Chỉ hai năm sau, tổng thống được thông báo rằng bức tranh bị treo ngược - hãy tìm hiểu xem những người theo chủ nghĩa trừu tượng này định làm gì ở đó. Tổng thống vui mừng: “Nhìn mà thấy đau đầu”. Và nếu một tổng thống bị đau đầu vì một bức ảnh, người ta chỉ có thể đoán được điều gì đang xảy ra với những người đứng đầu toàn xã hội, trong đó các hướng dẫn bị đánh đổ, các đặc điểm bị mờ đi và mọi thứ bị đảo lộn.
 

https://story.ru/istorii-znamenitostej/istoriya-iskusstv/obraz-i-podobie-svobody

Maxim Carlovich Kantor, sinh 1957,  hoạ sĩ Nga, nhà tản văn, phê bình nghệ thuật.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

SỰ NHẦM LẪN CỦA MỘT GIÁO SƯ

(Bàn về cuốn Tiếng Việt 1 của GS Hồ Ngọc Đại)

Trần Đình Sử

Tôi với GS Hố Ngọc Đại có chút đồng hương, đã từng học ở trại Thiếu sinh Quảng Trị đóng trên đất Hà Tĩnh thời KC chống Pháp, dành cho con em tỉnh nhà vì quê hương chìm trong khói lửa. Tôi không có mâu thuẫn gì với anh Đại. Tôi cũng tán thành một số quan niệm rất hay của anh, như mỗi ngày đến trường là một ngày vui, giáo dục học sinh để nó phải “trở thành chính nó”. “lấy HS làm trung tâm”… Nhưng đó là nói ở của miệng cho hay thôi, chứ hiểu cho đúng các mệnh đề ấy không dễ, và thể hiện trong chương trình với SGK thế nào lại càng khó.

Tôi biết chắc anh Hồ Ngọc Đại chưa hề có một chương trình hoàn bị cho các môn học từ lớp 1 đến lớp 12. Chứng cớ là cho đến nay người ta mới thấy ông chỉ có một cuốn Tiếng Việt 1, chưa ai thấy các cuốn tiếp theo lẽ ra phải có. Nếu ai không tin, đề nghị anh Đại công khai chương trình đầy đủ của anh cho mọi người biết và nhận xét, thẩm định. Đó là nói về Chương trình, còn nhìn SGK của anh thì người ta thấy còn lâu mới đạt được yêu cầu đó, vì như SGK Tiếng Việt 1 công nghệ có quá nhiều sai sót ấu trĩ.

GS Hồ Ngọc Đại đi đâu cũng nói SGK tiếng Việt 1công nghệ của ông là môn khoa học, đã là khoa học thì phải học khái niệm. Tiếng Việt 1 theo ông, chỉ học một khái niệm , đó là cấu trúc ngữ âm của tiếng Việt. Vậy chữ viết là gì? Là vật thay thế cho âm là vật thật. Để học cấu trúc ngữ âm, học sinh chỉ học âm tiết, không học nghĩa, bởi nếu học nghĩa thì hoá ra học từ, mà theo ông đó là nội dung của lớp 2. Bài học của ông là một không gian chân không về nghĩa. Quy tắc chính tả là các quy ước. Sách của ông dạy HS phân biệt âm và chữ, tập đọc vần và viết theo vần, kết hợp dạy chính tả và cố nhiên là HS biết đọc và biết các quy tắc chính tả. Đây là một ưu điểm nổi trội của SGK này. Nhưng HS đọc mà không hiểu nghĩa là một thiếu sót lớn. Cách dạy theo công nghệ là GV thực hiện răm rắp theo SGV, y như người thợ dạy một cách máy móc (xem hướng dẫn của SGV công nghệ). Sách CN không đòi hỏi (thậm chí cấm GV thay đổi các quy định của SGV) GV được hình dung như một robot, cho nên GV lười và kém có thể thích SGK này. Sách CNGD không yêu cầu cha mẹ HS tham gia phối hợp. Về thực tiễn, nghe nói cách dạy này học chắc, không tái mù. Nhưng xin hỏi ai xác nhận điều này, có các khảo sát và đánh giá nào chính thức? Chỉ là do các anh kêu to lên mà thôi. Yêu cầu học chữ không chỉ để chống tái mù. Theo tôi cần có sự kiểm định khách quan, có đối chứng với SGK tiếng Việt 1 khác mới khoa học. Tôi nghe nói Viện KHGD đã nghiên cứu tiếng Việt 1 của CNGD, nhưng không đối chứng thì thử hỏi có giá trị gì? Tôi cũng nghe nói một số GV kêu phải thêm giờ thì mới dạy được, và các báo cáo kết quả sử dụng sách CNGD gửi lên trên trước đây do nhiều lí do còn thiếu khách quan, trong đó có vai trò của vụ chỉ đạo bậc học, nhiều cán bộ ở vụ Tiểu học đều là người của GS Đại, do GS cầm lái. Cần minh bạch với cái huyền thoại này.

Về lí thuyết, quan niệm của GS Đại còn nhiều khiếm khuyết nghiêm trọng không thể chấp nhận đuợc.

1. Sách tiếng Việt 1 không phải là sách khoa học. Chỉ có ngành ngữ học, Việt ngữ học, ngữ âm học mới là khoa học. Còn SGK Tiếng Việt là sách học tiếng Việt trong nhà trường, nhằm dạy HS đọc chữ, viết chữ đúng chính tả, đọc hiểu nghĩa, biết nói, viết các bài văn bằng tiếng Việt. Nó có nội dung khoa học và các nội dung khác như đạo đức, thẩm mĩ, các tri thức cảm tính, các bài thơ, bài văn, không phải đều là khoa học cả. Xem SGK Tiếng Việt 1 là khoa học là một ngộ nhận ấu trĩ.. HS lớp 1 chưa cần học khoa học cực đoan như thế. Trong Lời nói đầu sách TV1 bản mẫu, ông ghi “Mục tiêu sách TV1 là dạy cho HS cấu trúc ngữ âm tiếng Việt”. Quá sai lầm. HS lớp 1 thì chỉ cần học chữ học vần, biết đọc biết viết, thuộc một số quy tắc chính tả, chứ học cấu trúc ngữ âm làm gì? GV có thể cần biết, song HS lớp 1 thì phải tạo thói quen chứ không phải học khái niệm. Ông cho HS học hết cấu trúc ngữ âm tiếng Việt như âm, âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối, âm đôi, những khái niệm chỉ ở đại học mới học. Ông lại cho HS học thêm các khái niệm của riêng ông như vật thật, vật thay thế, lên lớp trên các khái niệm triết học của riêng ông càng nhiều. Ông lại dạy hết các quy tăc chính tả tiếng Việt, kể cả chính tả ngữ nghĩa cho HS lớp 1. Thật là quá tải. Đó là do quan niệm dạy khoa học cho HS lớp 1 mà nên.

2. Dạy học Tiếng Việt , dù ở lớp 1, đều là dạy HS năng lực sử dụng tiếng Việt: đọc, viết, nói, nghe, suy nghĩ, không phải nghiên cứu tiếng Việt. Phương pháp của nó là phương pháp giao tiếp: Đọc, viết, nói nghe, hỏi đáp những điều có nghĩa, gắn liền với dạy tư duy.

Còn chỉ học đọc âm, viết đúng chính tả mà không hiểu nghĩa, không biết nói thì đó là một yêu cầu quá thấp, không phải yêu cầu học tiếng. Sách thiếu hẳn phần kể chuyện, nói, nghe, chào hỏi.

3. SGK dạy cho HS phải có nội dung tư tưởng, đạo đức. SGK của GS Đại đầy rẫy những từ phản cảm như ăn quỵt, hàng thịt nguýt hàng cá, củ rủ cù rù, (Xem lại bài của Đao Tiến Thi Về ngữ liệu trong Tiếng Việt 1 CNGD.).

4. Sách yêu cầu HS đọc nhiều văn bản mà các em – với lứa tuổi của minh – chưa thể hiểu như Bình Ngô Đại cáo, Hịch tướng sĩ, Nam Quốc sơn hà, nếu chỉ cốt tập đọc âm và chữ, thì không có mấy ý nghĩa.

5. SGK CNGD viết không theo một chương trình được xây dựng khoa học. Họ chưa có chương trình xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12. Hiện tại chỉ có sách lớp 1, còn từ lớp 2 trở đi là chưa có. Cái kế hoạch mà tự anh nói ra, là dạy lớp 1 ngữ âm, lớp 2 từ ngữ, lớp 3 cụm từ, lớp 4 đoạn văn, lớp 5 bài văn là một kế hoạch phi khoa học, bởi trong tiêng Việt các yếu tố ấy không tách rời. Chúng tôi đề nghị GS Đại công bố chương trình CNGD từ lớp 1 đến lớp 12 cho mọi người cùng tham khảo và nếu muốn sử dụng phải được HĐQG thẩm định ( như SGK vậy).

Sách Tiếng Việt 1theo GS Đại, đã được viết 40 năm nay, từng được được đem sử dụng đại trà mà không qua thẩm định. Đó là điều vi phạm luật Giáo dục. Năm 2017 và năm 2018 Bộ đã tổ chức thẩm định để khỏi phạm luật, Hội đồng đã chỉ ra nhiều bất cập, nhưng GS Đại đã tiếp thu rất ít. Ông từng bảo BTV Nxb không được đụng bút vao văn bản của ông. Cuoií cùng ông vẫn sửa một ít.  Hội đồng cho phép sách của ông chỉ được sử dụng cho đến khi có chương trình mới. Đến nay chương trình mới đã ban hành, sách của ông đã hết thời hạn sử dụng. Thế mà ông lại đem sách củ, không sửa một chữ, đưa cho HĐTĐ, yêu cầu HĐTĐ thông qua, HĐTĐ đánh giá không đạt, ông đã kếu với báo chí rằng HĐTĐ không đủ trình độ đánh giá sách của ông; Ông kêu với thủ tướng, với chủ tịch nước và chủ tịch quốc hội, đòi hỏi phải có cơ chế riêng để sử dụng vô điều kiện sách của ông cho năm học mới. Đó là môt yêu cầu vô lí, vi phạm luật giáo dục, mà ai cũng thấy, chỉ riêng ông là không thấy..

Một cuốn sách như thế hoàn toàn không phù hợp với nội dung, tinh thần và phương pháp dạy học của chương trình mới. Vì thế Hội đồng thẩm định quốc gia đã bỏ phiếu không đạt là hoàn toàn hợp lí. Song GS Đại vẫn không bằng lòng. Tôi nghĩ món nhuận bút của 900000 bộ sách lớp 1 vô cùng hấp dãn và GS không thể từ bỏ, cho dù nó vô lí đến mức nào.

Tôi biết nhiều người mặc nhận thầy Đại là giỏi, song chưa hề đọc sách của ông và SGK của ông. Tôi khuyên mọi người hãy đọc cuốn sách nhỏ của ông có tên là Sách giáo khoa đổi mới giáo dục toàn diện triệt để của ông viết để dạy toàn ngành giáo dục để biết về học vấn và con người ông. Đọc sách của ông tôi xin nhận xét như sau:

GS Hồ Ngọc Đại bấy lâu nay được làm chủ ở trường thực nghiệm, một mình một cõi, ở trên vạn người mà không ở dưới ai cả, muốn dạy gì thì dạy, muốn nói gì thì nói, suy nghĩ tự do, tuỳ tiện, không nghe ai phản biện, không biết tôn trọng người khác, chỉ thích những kẻ phỉnh nịnh, do vậy khó mà đòi hỏi ở ông một tư duy khách quan và khoa học được, mặc dù khi nào ông cũng tự khoe là tư duy khoa học và chê người khác là tư duy kinh nghiệm. Ông thể hiện một phong cách học phiệt.

Hà Nội, ngày 3 tháng 1 năm 2020

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

PHƯƠNG LỰU DẪN NHẬP LÍ THUYẾT VĂN CHƯƠNG

Phương Lựu là bút danh của Bùi văn Ba, nhà giáo, nhà văn, nhà lí luận văn học, người viết rất nhiều công trình biên khảo lí luận văn học giàu tính Đảng và tính chiến đấu bậc nhất ở Việt Nam. Ông sinh năm 1936, quê ở làng Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Sau năm 1954 ông được cử sang học Đại học sư phạm Bắc Kinh, khoa ngôn ngữ văn học, sau khi tốt nghiệp năm 1960, ông về làm cán bộ giảng dạy văn học Trung Quốc tại khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội. Ông đã tham gia viết giáo trình Lịch sử văn học Trung Quốc. Một thời gian sau, khoảng năm 1964, do những thay đổi cá nhân, ông được chuyển sang bộ môn Lí luận văn học, dưới “trướng” của Trưởng môn lí luận văn học Nguyễn Văn Hạnh mới ở Liên Xô về. Từ đó bắt đầu hoạt động lí luận văn học của ông. Tôi biết ông từ năm 1961, khi vừa ở lại làm giảng viên khoa tiếng Trung ở ĐHSP Hà Nội. Sau này năm 1981, khi học ở Nga về, được chuyển về ĐHSP Hà Nội, tôi cùng sinh hoạt một tổ bộ môn với ông. Trên đường từ trường về nhà tôi thỉnh thoảng ghé vào nhà ông chơi, trò chuyện.

         Trưởng thành vào thời điểm đấu tranh ý thức hệ gay gắt từ những năm 60 thế kỉ trước, buộc người làm lí thuyết phải biết lựa chọn con đường để tồn tại và phát triển. Ý thức sứ mệnh của ông thể hiện trong các tên sách mà ông đặt như là những khẩu hiệu có chủ đích của thời đại, diễn ngôn của người ở cương vị chỉ đạo: Học tập tư tưởng văn nghệ Lênin (1979), Vì một nền lí luận văn học dân tộc, hiện đại (2009), Trên đà đối mới văn hóa văn nghệ (1994), Khơi dòng lí thuyết (1997), Tiếp tục khơi dòng (2001).

     Hoạt động lí luận văn học của ông rất liên tục và phong phú, lí luận mác xít, lí luận văn học phương Đông, lí luận văn học phương Tây đủ các trường phái, phương pháp luận, kể cả hậu hiện đại, hậu lí luận, ông có vẻ như một nhà bách khoa về lí luận văn học thế giới từ cổ chí kim. Đọc kĩ các sách của ông người ta sẽ nhận ra trong đó có ba mảng lớn: Nghiên cứu, giới thiệu lí luận văn học để phục vụ đường lối; kiên trì hệ thống khái niệm lí luận Mác Lênin của Liên xô cũ trong dạy học; dẫn nhập lí luận văn học thế giới theo quan điểm mĩ học Mác Lênin với phương pháp “gạn đục khơi trong” (tức là tiếp nhận có phê phán).   

     Hai cuốn sách đầu  tiên của ông thể hiện rõ rệt khuynh hướng truyền bá lí luận mác xít: Một là Lỗ Tấn, nhà lí luận văn học (1977), tiếp theo là cuốn Học tập tư tưởng văn nghệ Lênin (1979). Lê nin là bậc thầy của cách mạng vô sản thế giới, tư tưởng của ông là kim chỉ nam cho cả một thời. Lỗ Tấn là nhà văn Trung Quốc được Mao Trạch Đông đem làm phương hướng của văn hóa Trung Quốc hiện đại, con đường của ông tiêu biểu cho con đường của trí thức hiện đại: từ chủ nghĩa cá nhân lãng mạn đến chủ nghĩa Mác. Cách làm của Phương Lựu rất gần gủi, dễ hiểu với mọi người. Ông chọn lấy các chủ đề mà mọi người quan tâm, ví như Lenin thì: sự phát triển của Lênin đối với chủ nghĩa Mác, vấn đề tính đảng trong văn học, vấn đề phản ánh luận và điển hình, vấn đề kế thừa và cách tân, vấn đề đặc trưng văn học, rồi chọn những câu trích dẫn về các vấn đề đó và diễn giải cho rõ nghĩa. Đối với tính đảng thì văn nghệ là cái bánh xe, đinh ốc nhỏ của cổ máy đồ sộ do đảng xã hội dân chủ (tức cộng sản) cầm lái. Đối với Lỗ Tấn cũng vậy, ông chọn các chủ đề như đấu tranh trên hai mặt trận, sự tu dưởng của nhà văn, đại chúng hóa văn nghệ, kế thừa di sản, tiếp thu nước ngoài, điển hình văn học, thể loại văn học, ngôn ngữ văn học, phê bình văn học, rồi cũng trích dẫn những câu rất đắt, tương ứng với đề mục, và giải thích tư tưởng của nhà văn. Các đề mục ấy đều là các vấn đề được giáo trình đại học, báo chí nhắc đến. Mọi giải thích đều góp phần giúp mọi người hiểu được các vấn đề lí thuyết của văn học.

     Tập luận án tiến sĩ của Phương Lựu với nhan đề Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam (1997) cũng đáp ứng yêu cầu tổng kết và kế thừa truyền thống của ông cha ta, là công trình đầu tiên có kì vọng khái quát cả một truyền thống lớn của văn học dân tộc. Sách cũng được tiến hành theo cách như trên. Tác giả lập ra các chủ đề nội dung như: Quan niệm văn học yêu nước và tự hào dân tộc trong suốt thời kì trung đại; Quan niệm văn học truyền thụ đạo lí phong kiến trong thời hưng thịnh; Sự diễn biến tiêu cực của quan niệm văn học truyền thụ đạo lí phong kiến từ giai đoạn trung suy đến quan niệm “văn dĩ tải đạo” của vua quan triều Nguyễn; Quan niệm văn học hiện thực và nhân dân trong thời phong kiến suy thoái…Sau đó là trích chọn các ý kiến phù hợp với các đề mục và giải thích. Tác giả đã sử dụng hệ thống quan niệm hiện đại để giải thích lí luận cổ điển của ông cha. Quyển sách tuy có tính mới, nhưng các đề mục ấy cũng đã thu hẹp quan niệm văn học của người xưa và không tránh khỏi có lúc hiện đại hóa tư tưởng người xưa. Chẳng hạn sau khi dẫn những ý kiến về “văn dĩ tải đạo”, tác giả viết như là kết luận: “Và đạo ở đây hiển nhiên không phải là hiện thực khách quan, mà là đạo nghĩa của thánh hiền.”[1] Thật khó mà đòi hỏi một quan niệm “hiện thực khách quan” dưới thời trung đại?[2] Trên thực tế việc nghiên cứu quan niệm văn học cổ điển Việt nam còn rất yếu, chưa có đủ cơ sở để nêu ra các khái quát như của Phương Lựu, nhất là về thời nhà Nguyễn.

    Công trình thứ tư là Tìm hiểu một nguyên lí văn chương (1983) tập trung nghiên cứu nguyên lí tính dân tộc của văn học. Thời đó cũng có một số công trình khác như thế, đại đồng, tiểu dị. Tính dân tộc là vấn đề rất bức thiết của lí luận văn học mác xít Việt Nam, đề cao tính dân tộc, phản đối tính ngoại lai, nhưng là vấn đề rất khó, chưa tìm được phương pháp luận có sức thuyết phục. Vì thế ở đây Phương Lựu chưa có gì đột phá thì cũng là chuyện thường. Biết bao cuộc hội thảo dưới tên gọi “tính dân tộc”, “bản sắc dân tộc”,  với rất nhiều báo cáo khoa học mà vấn đề vẫn còn mơ hồ. Nhà lí thuyết Mĩ Benedic Anderson (1936-2015) coi dân tộc chỉ là “cộng đồng tưởng tượng”, còn nhà triết học Pháp F. Jullien thì cho rằng Không có bản sắc văn hóa[3]. Dĩ nhiên công trình của Phương Lựu cũng nằm trong một cộng đồng tưởng tượng nhất định. Ông có nêu lên phân biệt “thuộc tính dân tộc” và “phẩm chất dân tộc”, nhưng xem ra “thuộc tính” và “phẩm chất” cũng khó phân biệt nhau, vì đều là tính chất cả.

     Công trình thứ năm là Nhìn lại nửa thế kỉ lí luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt nam(1998) có ý định tổng kết về lí thuyết phương pháp sáng tác, từ đường lối của Đảng đến tìm tòi của giới lí luận Việt nam, khi mà lí luận này trên thực tế đã bị chính văn học bỏ qua. Đó là tập sách sưu tập công phu, tỉ mỉ và khá đầy đủ tư liệu về phạm trù phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với niềm tin là phương pháp tiên tiến nhất trên thế giới. Công trình thứ sáu tiêu biểu nhất cho tinh thần của Phương Lựu, được viết trong những ngày sôi sục đổi mới năm 1986 -1988, là cuốn Trên đà đổi mới văn hóa văn nghệ (1994). Tuy nhan đề là trên đà đổi mới, nhưng tinh thần của ông là bảo vệ kiên quyết tính đúng đắn của các nguyên lí văn nghệ mác xít chính thống. Đối với các ý kiến muốn hoài nghi vấn đề lí thuyết mác xít, ông đều phản bác lại, đẩy đối phương vào vùng nguy hiểm. Ông tự đặt mình vào vị trí người bảo vệ các nguyên lí chính thống.[4] Ông tự hào cũng đã đề xuất đổi mới, nêu chức năng thẩm mĩ của văn học lên hàng đầu, trước các chức năng nhận thức, giáo dục trong nhận thức hệ thống. Nhưng cách lập luận của Phương Lựu lại giản đơn, ông đồng nhất thẩm mĩ với giáo dục tình cảm: “Chức năng duy nhất ở cấp độ hệ thống là bồi dưỡng tình đời cho con người biết khao khát, trực tiếp hoặc gián tiếp vươn lên cái đẹp, cái hoàn thiện có thể có được ở từng nơi từng lúc[5]. Ông sơ suất thế nào mà không thấy “Bồi dưỡng tình đời” chính là chức năng giáo dục tình cảm. “Thẩm mĩ” của tác giả ở đây hóa ra chỉ là yếu tố của chức năng giáo dục! Cho đến khi viết giáo trình năm 2002, tập 1, ông vẫn hiểu thẩm mĩ nghiêng về  khía cạnh cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ, chứ không phải là sáng tạo thẩm mĩ.

    Điều ông không ngờ là trên thực tế, cả trong văn kiện lẫn trong thực tiễn  đời sống văn nghệ sau thời Đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã dần dần tự thay đổi rất nhiều. Trên thực tế trong các văn kiện đảng đã rút lui khẩu hiệu “văn nghệ phục vụ chính trị”, không tiếp tục nêu yêu cầu nhà văn về tính đảng, tính nhân dân, không nêu phương pháp chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa nữa, mà cho phép các nhà văn tự do tìm tòi các phương pháp và phong cách mới. Đó là những thay đổi rất to lớn, có ảnh hưởng rất sâu rộng. Không nói chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa có nghĩa là không bắt buộc phải sáng tạo điển hình, con người mới  như Trường Chinh đã yêu cầu hồi những năm 60. Đảng cũng không chỉ ra cái hiện thực theo quan niệm của mình để yêu cầu nhà văn phản ánh. Điều này cho thấy việc đấu tranh bảo vệ quyết liệt có lúc không có nhiều ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn. Thời gian này ông còn có hai cuốn Khơi dòng lí thuyếtTiếp tục khơi dòng theo một nghĩa to tát là mở kênh cho lí thuyết nước ngoài chảy vào Việt nam. Thiết nghĩ, khơi dòng là một công việc lớn, cá nhân khó ai làm nổi. Tốt nhất là góp phần gạt bỏ các trở ngại cho tiếp nhận lí luận được dễ dàng hoặc vận dụng cho người khác tham khảo.  

      Qua tám công trình vừa nêu ta có thể thấy rõ, nghiên cứu lí luận đối với Phương Lựu là công việc góp phần truyền bá, củng cố, bảo vệ đường lối lí luận văn học.      

     Là một giáo sư, Phương Lựu còn có nhiệm vụ biên soạn giáo trình lí luận văn học cấp đại học. Ông đã tham gia biên soạn giáo trình lí luận văn học từ năm 1980, 1983 cho Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp. Ai cũng biết nội dung lí luận văn học Việt Nam từ 30 năm trước, bắt đầu với bộ sách của Nguyễn Lương Ngọc, đều mang nội dung chính trị hóa, xã hội học hóa rất đậm và nội dung sơ lược, chủ yếu là trích dẫn các ý kiến kinh điển, rồi suy diễn ra các nguyên lí văn học.  

      Bối cảnh tiếp nhận lí luận văn học của Phương Lựu cũng như nhiều tác giả viết giáo trình khác, bao gồm cả chúng tôi trong đó, là lí luận văn học xô viết với các tên tuổi như L. I. Timofeev, G. L. Abramovích, …  Cả nền lí luận văn học Việt Nam hồi ấy chưa ai đi ra ngoài cái bóng của họ. Phương Lựu học ở Trung Quốc thì có đọc thêm giáo trình lí luận văn học của Pitacop (1958) và nhiều tài liệu khác dịch từ Nga. Ông học ở Trung Quốc thì đặc biệt chịu ảnh hưởng tư tưởng trong các trào lưu chống phái hữu và chống xét lại hiện đại. Đặc điểm của lí luận Liên xô là thấm nhuần xã hội học, chính trị hóa cao độ, ý thức đấu tranh tư tưởng rất mạnh mẽ. Đến khi Stalin mất năm 1953, xã hội Liên Xô “rã đông”, lí luận Nga đã thay đổi phần nào, nhưng lúc ấy, ta lại phê họ là xét lại, thành ra ta lại cứ bám lấy mớ lí luận giáo điều, kinh viện cũ mà họ đang dần dần bỏ đi. Tình hình Trung Quốc cũng thế, ta lại chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, mà lí luận của Mao vốn cũng thấm nhuần lí luận Liên Xô. Đây không phải là vấn đề riêng của ai, mà chung cho cả giới, nhất là giới quản lí văn nghệ và giới đại học. Đến thời cải cách mở cửa, giới lí luận Trung Quốc có khẩu hiệu khắc phục di sản lí thuyết Liên xô cũ, hướng về phương Tây, nhưng ở ta thì không thấy nói gì. Vì thế, người làm lí luận văn học ở Việt Nam như đứng giữa hai dòng nước, tùy nghi lựa chọn theo khuynh hướng nhạy bén của mỗi người. Chúng tôi đi theo hướng đổi mới trong lí thuyết Nga của Bakhtin, Lotman, Tamarchenco…, Phương Lựu thì thiên về bảo lưu các nguyên lí truyền thống. Năm 1985 nhà xuất bản Giáo dục tổ chức biên soạn giáo trình lí luận văn học mới. Đây là công trình có nhiều người viết, tôi chỉ nói riêng phần viết của Phương Lựu. Là người chủ biên, ông giữ bố cục như các sách lí luận cũ, bao hàm một phạm vi lớn các nội dung xã hội học vào sách. Trong bộ sách viết vào thời đã đổi mới này ông vẫn giữ nguyên bài tính giai cấp của văn nghệ, khẳng định nó là bản chất của văn nghệ, đấu tranh quyết liệt chống lại quan điểm phủ nhận nó. Ông đặt ra mục : “Đấu tranh từ hai mặt xung quanh vấn đề tính giai cấp. a. Kiên trì quan điểm giai cấp, phê phán thuyết “tính người” và “chủ nghĩa thành phần.” ,“b. Nêu cao lí tưởng nhân đạo chân chính, vạch trần chủ nghĩa bá đạo và chủ nghĩa nhân đạo giả hiệu.” [6] Đối lập triệt để tính giai cấp và tính người, chỉ ra “chủ nghĩa nhân đạo giả hiệu”… là diễn ngôn ý thức hệ mác xít một thời, chủ yếu là thời chiến tranh lạnh của Trung Quốc, nhằm xác lập một đối tượng để đấu tranh tư tưởng, ai không thừa nhận có thể bị coi là thù địch, chứ không phải là khoa học. Về lí thuyết, vấn đề thực tế phức tạp hơn rất nhiều. Marx,  Engels, Lenin nói tính giai cấp, nhưng không phủ nhận tính người[7]. M. Gorki đã nói nhiều đến tính giai cấp của văn học, đồng thời ông cũng nói đến “văn học là nhân học.” Từ ngày cải cách mở cửa năm 1980, hàng trăm học giả Trung Quốc đã bàn lại vấn đề này, sự đối lập kia đã bị vượt qua[8]. Nhà văn Trung Quốc đoạt giải Nobel Mạc Ngôn cho rằng, dù miêu tả nhân vật thuộc giai cấp nào, chỉ khi miêu tả người ấy như một con người với tất cả tính người của nó, thì tác phẩm mới sống động, còn nếu miêu tả một người chỉ có tính giai cấp, thì sẽ là một hình nộm, “mà đã miêu tả tính người thì nó phải siêu giai cấp.”[9] Ở Việt Nam Trần Đức Thảo đã giải quyết vấn đề tính người và tính giai cấp một cách khoa học[10]. Từ ngày “Đổi mới” văn học viết về tính người, về bản năng, về tính dục, về giới ở Việt nam cũng phát triển mạnh, cho thấy quan niệm giáo điều đã bị đẩy lùi.

      Với giáo trình Lí luận văn học viết mới, xuất bản năm 2002, tuy nội dung đã có đổi mới và cách viết mềm mại, hệ thống hơn, đã bỏ mục tính đảng (tính đảng sẽ nói ở phương pháp HTXHCN), có nhiều chỗ đã nói đến tính người, chủ nghĩa nhân đạo chân chính, vẫn được in đi in lại sử dụng cho đến nay, ông vẫn giữ nguyên các mục và quan điểm xã hội học y hệt như sách cũ[11]. Nếu nhìn sang Trung Quốc, thì từ những năm 80 thế kỉ trước cho đến nay các giáo trình đã thay đổi căn bản. Các giáo trình lí luận văn học hiện đại của Đổng Học Văn (Đại học Bắc Kinh, 2001), Vương Nhất Xuyên (2002), Nam Phàm (2002), Đồng Khánh Bính (2003), của Lỗ Xu Nguyên (2006), của Dương Xuân Thì (2007), đều đã không còn các mục nội dung xã hội học như phản ánh luận, tính giai cấp, tính đảng, phương pháp sáng tác. Nếu nhìn sang Nga, từ sau khi Liên Xô sụp đổ thì giáo trình lí luận văn học đã thay đổi hẳn, như bộ giáo trình 2 tập do N. Tamarchenco chủ biên viết theo thi pháp học (2004), Lí luận văn học do G. Khalizev chủ biên cũng loại bỏ phần nội dung xã hội học (2001), đều không còn phản ánh luận và tính giai cấp, tính đảng, không còn vấn đề quan hệ chính trị và văn nghệ. So sánh sơ qua như thế để thấy, trong vai trò của mình, để cho an toàn, Phương Lựu đã bỏ lỡ nhiều cơ hội làm mới cho nội dung khoa học của giáo trình để theo kịp lí luận và thực tiễn trong nước/ ngoài nước.

      Trong sách Tiến trình văn học (2005) do Phương Lựu chủ biên ông vẫn sử dụng nguyên cái khung nội dung của hàng chục năm trước, không hề có gì thay đổi đáng kể. Ông lại đưa vào cả phần gọi là phương pháp sáng tác văn học phương Đông do ông tự sáng tạo ra với các thuật ngữ phương Tây, chẳng hạn nói đến chủ nghĩa hiện thực ở thời mạt kì phong kiến, rồi lấy nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều làm ví dụ. Chương viết về chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XX cũng thể hiện một chủ nghĩa hiện thực bị “phiếm hóa”[12], làm mất đi ranh giới của khái niệm, mà Eagleton đã nói, “khi ranh giới khái niệm bị bỏ qua thì khái niệm không thành khái niệm nữa”[13]. Ông cho mọi phương pháp đều mặc một bộ đồng phục chung. Ở phần phương pháp sáng tác ngoài nội dung, ông cho thêm phần “thi pháp”, để chỉ các biểu hiện hình thức. Theo tôi đó là một sự hiểu lầm tai hại khái niệm thi pháp. Trên Tạp chí Cộng sản số 8 năm 2008 ông có bài Chung quanh vấn đề phương pháp sáng tác hiện nay phàn nàn về việc không tiếp tục sử dụng khái niệm phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa đã gây trở ngại cho phê bình văn học rất nhiều, và ông đã dự báo một phương pháp sáng tác mới do ông tự nghĩ ra, gọi là “chủ nghĩa chân thực.”[14] Điều đó cho thấy ông rất luyến tiếc khái niệm phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cũng năm này ông công bố giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu văn học (2005), ở đây, ngoài phương pháp luận chung, tác giả đã phân chia ra các phương pháp lí luận, phê bình, văn học sử, phương pháp luận nghiên cứu văn học phương Tây. Tác giả hình như chưa hình dung được độ khó của vấn đề được nêu ra.

    Ngoài các giáo trình ông còn soạn thảo các chuyên đề lí luận văn học cho cao học, nghiên cứu sinh. Từ thời đổi mới, với sự mở rộng giao lưu phạm vi các lí luận văn nghệ của Phương Lựu được mở rộng. Là người cùng một bộ môn với ông, tôi thấy sự hăm hở hối hả của ông để làm một nhà chuyên gia lí luận văn học phương Tây. Sẵn khi học giới Trung Quốc phiên dịch và giới thiệu hầu hết các trường phái lí luận phương Tây, Phương Lựu có điều kiện tiếp thu, nghiên cứu, giới thiệu các trường phái ấy. Ông có một quá trình tìm hiểu liên tục lí luận văn học phương Tây thể hiện qua các sách Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây hiện đại (1995), Mười trường phái lí luận văn học hiện đại phương Tây (1999), sau đó nhập lại thành 22 trường phái với quyển Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX (2001), mà tôi biết chủ yếu đọc qua tiếng Trung. Đây là công trình bao quát nhất đương thời về lí thuyết phương Tây bằng tiếng Việt, đến nay vẫn chưa có công trình nào có số lượng trường phái nhiều hơn. Giới thiệu một khối lượng các trường phái lí thuyết vừa văn, vừa triết, vừa tâm lí học, ngôn ngữ học như vậy thật không dễ chút nào, độc lực một mình nói chung, không ai làm nổi. Ở Trung Quốc các sách loại đó đều là  công trình tập thể, do một số người chủ biên. Phương Lựu đã dựa vào các công trình đó mà một mình viết lại, tất nhiên phải mất rất nhiều công phu nghiền ngẫm, tra cứu mới tổng thuật được, và công trình cũng có giá trị tham khảo. Nhờ các công trình của ông mà bạn đọc Việt nam biết được một số lí thuyết tâm lí mĩ học, như lí thuyết chuyển cảm, lí thuyết hoàn hình…. Song như trên đã nói, tác giả chỉ mới sưu tập, tích lũy dần, chưa kịp sắp xếp theo thứ tự logic phát triển của chúng. Xem bài Tổng quan từ trang16 -31 của tập sách 2001 chỉ mới nói tới hai khuynh hướng “thiên nhân bản” và “thiên khoa học”(“thiên” đây nghĩa là nghiêng về, thiên vị), hình như chưa cho thấy hai cuộc chuyển đổi hệ hình, từ tập trung vào tác giả, chuyển sang tập trung vào văn bản, và lần thứ hai, từ văn bản chuyển sang người đọc. Tác giả cũng chưa cho thấy có ba sự chuyển hướng về cách tiếp cận: lần thứ nhất, từ lí tính sang phi lí tính và lần thứ hai, từ suy lí triết học chuyển sang phân tích ngôn ngữ và đồng thời chuyển hướng sang văn hóa, từ phân tích cấu trúc ngôn ngữ đến giải cấu trúc, hoài nghi mọi đại tự sự[15]. Trong tập sách gần đây nhất Hậu lí luận vẫn là lí luận  ĐHSP, Hà Nội, 2021, đọc nhan đề sách, ta thấy ông vẫn muốn khẳng định một xu hướng lớn: “Hậu lí luận” vẫn là “lí luận”. Đây là vấn đề mới, giới lí luận phương Tây đang thảo luận, khẳng định như Phương Lựu có thể là hơi sớm chăng?

    Tiếp sau, Phương Lựu còn viết Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương Tây (2007) và Lí thuyết văn học hậu hiện đại (2011). Lí luận chủ nghĩa Mác phương Tây là một cố gắng để giải quy phạm, giáo điều của chủ nghĩa mác chính thống[16]. Trước đây sự đối lập giữa chủ nghĩa Mác phương Đông (chính thống của các nước XHCN đề cao đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản) với chủ nghĩa Mác của các học giả phương Tây (nhấn mạnh chủ nghĩa nhân đạo và triết học thời kì đầu của Mác, phê phán chủ nghĩa Lênin) đã bị cường điệu cực đoan, một sống một chết, bỏ qua sự thống nhất của chúng. Công trình của Phương Lựu đã cố gắng giới thiệu môt số tư tưởng văn học của một số tác giả mác xít bị coi là xét lại (vẫn còn bỏ sót một số), không phân biệt thời kì đầu thế kỉ và cuối thế kỉ XX, là một việc làm bổ ích, vì ở ta hình như rất ít người quan tâm việc này. Nhưng ông đã dùng cách “gạn khơi”, lấy quan điểm của mác xít chính thống để thuật lại mác xít phương Tây, kết quả là vẫn một tinh thần phủ định như cũ[17]. Ví như giới thiệu R. Garaudy với đánh giá của Boris Sutchkov và của Tố Hữu thì khó mà hiểu được tác giả này. Phương Lựu bắt bẻ chữ “vô bờ bến” của Garaudy, dựa vào “tính chân thực”, “điển hình trong hoàn cảnh điển hình” để phê phán ông, mà không thấy cơ sở của tư tưởng của tác phẩm Garaudy là chủ nghĩa nhân bản của Mác thời kì đầu, con người lao động cải tạo thế giới và cải tạo mình, cho nên nó làm thay đổi tất cả, kể cả nghệ thuật, đó là một. Thứ hai, ông đề cao tính chủ thể của con người trong chủ nghĩa hiện thực. Thứ ba, ông cho thấy nghệ thuật thế kỉ XX không chú trọng mô phỏng và tái hiện. Không thấy Phương Lựu đề cập chút nào về một trong ba mặt này[18]. Cuốn Lí thuyết văn học hậu hiện đại, đã giới thiệu được bộ khung tri thức sơ lược của trào lưu tư tưởng hiện đại này.

    Trong phần giới thiệu lí luận phương Tây Phương Lựu có thêm phần Thi học so sánh (2002),trình bày một số bình diện so sảnh lí thuyết văn học. Đây là một ngành mới trong văn học so sánh do các học giả Hoa Kì đề xuất từ những năm 50, nhưng chỉ đến ngày nay, khi trào lưu hội nhập nổi lên thì mới được nhìn nhận và thực thi. Lí luận của Phương Lựu ở đây chịu ảnh hưởng sâu sắc của các học giả Trung Quốc, đặc biệt là của Tào Thuận Khánh, Đồng Kháng Bính, Hoàng Dược Miên, Trương Pháp, Phùng Hiến Quang… Có thể chỉ ra một số mục của ông tương ứng  với các chương mục nào trong sách của các học giả Trung Quốc nói trên. Lẽ ra  Phương Lựu nên ghi chú xuất  xứ cụ thể để bạn đọc tiện theo dõi. Một sự giới thiệu như Phương Lựu đã làm tuy hạn chế mà vẫn rất quý báu để đem lại một bổ sung, một nhận thức mới về sự ảnh hưởng, soi chiếu qua lại giữa các nền học thuật lớn trên thế giới. Chỉ tiếc là bộ phận so sánh thi học Việt Nam và Trung Hoa mà ông gọi là so sánh “nội văn hóa”thì quá sơ sài, và không cho thấy nhiều ý nghĩa.     Là người được đào tạo ở Trung Quốc, ông cũng có hai quyển sách viết về Tinh hoa lí luận văn học Trung Quốc (1979), Thi học cổ điển Trung hoa (2016) Quyển trên viết theo góc nhìn tư tưởng hệ và phản ánh luận[19]; quyển sau được thừa hưởng những thành tựu mới của Trung Quốc thời đổi mới.

     Qua lược thuật ở trên, có thể thấy, một đời lao động miệt mài, kiên trì, không mệt mỏi, Phương Lựu đã có công đem lại một số lượng tác phẩm với khối lượng tri thức khá đồ sộ, có tính đại chúng, giúp bạn đọc làm quen với nhiều lí luận và trường phái triết mĩ Đông Tây, góp phần bổ sung cái mà chúng ta vốn thiếu trong một thời gian dài. Nhưng mặt khác hệ tri thức chính trị hóa một thời đã chi phối hệ thao tác làm việc, khiến cho toàn bộ công trình của ông khó tránh làm xê dịch diện mạo tư tưởng phương Tây và tính khoa học cũng khó bảo toàn. Con đường lí thuyết của Phương Lựu chủ yếu là từ lí luận đến lí luận, mang tính dẫn nhập, ít vận dụng vào nghiên cứu văn học nước nhà. Hoạt động lí thuyết của Phương Lựu ở các giai đoạn chủ yếu mở ra theo bề rộng mà ít đi vào chiều sâu. Nhìn tổng thể lí luận của ông tiểu biểu cho diễn ngôn mác xít chính thống Việt nam.


[1] Phương Lựu tuyển tập, tập một, Lí luận văn học cổ điển phương Đông, Nxb Giáo dục, 2005, tr. 259.

[2] Trần Đình Hượu. Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung cận đại, trong sách Văn học và hiện thực, Nxb KHXH, Hà Nội, 1990, tr. 11-83.

[3] F. Jullien , Không có bản sắc văn hóa, Trươg Quang Đệ dịch, Nxb Đại học Huế, 2018.

[4] Phương Lựu, Trên đà đổi mới văn hóa văn nghệ, nxb Viện văn hóa – Sở văn hóa thông tin Quảng Ngãi, 1994, tr. 76.

[5] Phương Lựu, Trên đà đổi mới văn hóa văn nghệ, 1994, tr. 57.

[6] Lí luận văn học, nhiều tác giả, Phương Lựu chủ biên, Nxb Giáo dục, 2006, tái bản lần thứ 5, tr. 84, 86.

[7] Trần Đình Sử, Tính nhân loại và văn học, trong sách Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003.

[8] Nhà lí luận Trung Quốc Bao Trung Văn trong cuốn Lịch sử lí luận văn nghệ Trung Quốc đương đại (Nxb Giáo dục Giang Tô, Nam Kinh, 1998) đã nêu 3 hậu  quả nghiêm trọng của việc phủ định chủ nghĩa nhân đạo như sau: 1) Do triệt để phủ nhận chủ nghĩa nhân đạo, nhân tính luận tư sản, cho nên cái thần quyền, vương quyền mà chủ nghĩa nhân đạo tư sản đã phủ định, lại có dịp ngóc đầu lên chiếm địa vị thống trị. 2)Lại cũng do triệt để phủ nhận thuyết tính người và chủ nghĩa nhân đạo mà suốt mấy chục năm cách mạng đã có một thời đáng khiếp sợ, khi đó thú tính trỗi dậy và lan tràn trong các cuộc đấu tố khốc liệt. Người đấu người, người cắn người, người lừa dối người. 3)Phủ định chủ nghĩa nhân đạo và tính người là phủ định luôn bản chất của văn nghệ.” Xem: Trần Đình Sử, Một nền lí luận văn học hiện đại – nhìn qua thực tiễn Trung Quốc, Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2012, tr. 88.

[9] Mạc Ngôn, Văn học hay đều rộng lớn hơn chính trị, đột phá chính trị. Mạng Phượng Hoàng, 11/10/2012.

[10] Nếu Phương Lựu viết: “Cổ kim đông Tây quả là có tính người, tình người vượt ra khỏi  phạm vi một giai cấp, nhưng chưa hề có và không bao giờ có môt thứ tính người, tình người chung  cho mọi người, mọi giai cấp”(Mấy ngộ nhận về lí luận văn nghệ mác xít. Văn nghệ  4.2.1989), thì Trần Đức Thảo cho rằng: Con người có bản chất nhiều tầng, được hình dung như một lát cắt địa tầng: hàng 1, trên cùng, là con người giai cấp; hàng hai,  là con người nói chung, mang tính tộc loại; hàng ba là con người sinh vật, hàng bốn là con người hóa lí. Bản chất hàng hai được hình thành trong giai đoạn cộng đồng nguyên thủy, trong đời sống cá thể,  ở tuổi ấu thơ,  trong cộng đồng gia đình. Bản chất hàng 1  chỉ có từ thời thiếu niên và nó là một dạng tha hóa, khác với bản chất người. Như vậy tính người nói chung có từ thời nguyên thủy và tồn tại mãi mãi với loài người, và con người nói chung là hằng số có trong mọi con người cụ thể, là phần cốt lõi nhất.  (Vấn đề con người và chủ nghĩa “lí luận không có con người”, Nxb Thành phố  HCM, 1989, tr. 109 và các trang khác).Mao Trạch Đông, Althusser đều xem chủ nghĩa Mác là một thứ lí luận không có con người.

[11] Lí luận văn học tập 1, Văn học, nhà văn, bạn đọc, nhiều tác giả, Phương Lựu chủ biên, Nxb ĐHSP, 2002, tr. 114,118…

[12] Phương Lựu, Tiến trình văn học, tldd, tr. 235 – 245.

[13] Terry Eagleton, Văn bản, hình thái ý thức, chủ nghĩa hiện thực, trích theo sách Tuyển văn luận phương Tây mới nhất, Vương Phùng Chấn soạn, Nxb Li Giang , Quảng Tây, 1991, tr. 439.

[14] Phương Lựu, Vì một nền lí luận văn học dân tộc, hiện đại, Nxb Văn học, 2009, tr. 111.

[15] Xem phần Tổng quan trong sách: Phương Lựu, Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học, Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà nội, 2001, tr. 16 – 31.

[16] Lã  Nguyên, Việt Nam, một trăm năm tiếp nhận lí luận văn nghệ nước ngoài, Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2020, tr. 475.

[17] Xem thêm Lã Nguyên, tldd, tr. 482.

[18] Thông sử mĩ học phương Tây, tập hạ, Tưởng Khổng Dương, Chu Lập Nguyên chủ biên, Thượng Hải văn nghệ xuất bản xã, 1999,  tr. 560-570.

[19] Lã Nguyên, Việt Nam- một thế kỉ tiếp nhận lí luận văn nghệ nước ngoài, 2020, tr. 451.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

ĐỖ ĐỨC HIỂU VÀ BƯỚC NGOẶT PHÊ BÌNH THI PHÁP

Nhà nghiên cứu Phan Ngọc  khi nghiên cứu bản sắc nhân cách văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, Gia đình, Thân phận và Diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, nó xác nhận vị thế một con người trong xã hội. Trong văn học Việt Nam có cả một thế hệ nhà văn suốt đời hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đi theo con đường văn nghệ cách mạng cho đến thắng lợi, đến cuối đời mới chợt nhận ra thân phận và diện mạo của mình, thấy mình đã đi chệch nghệ thuật ở đâu đó, nhưng không thể làm lại được nữa.

      Đỗ Đức Hiểu (1924- 2003) sinh tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm,  Hà Nội cũng thuộc vào thế hệ đó. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 ông đã đỗ tú tài và đang học năm thứ hai đại học luật Hà Nội. Cuộc kháng chiến chống Pháp là bước ngoặt thứ nhất của đời ông.  Ông đã hiến nhà cho chính phủ và đi lên Việt Bắc, chuyển sang nghề dạy học văn ở mấy trường cấp 3 có tiếng như Hùng Vương, Lương Ngọc  Quyến. Sau 1954 ông mới ngoài 30 tuổi, làm ở Ban tu thư Bộ giáo dục, soạn những tập sách Văn tuyển lớp 5, lớp 6, lớp 7 và tham gia nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn, gồm chủ yếu là các nhà giáo, các học giả đã thành danh mà ông là trẻ nhất.  Nhưng sau bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, 3 tập, không mấy thành công và nhất là sau sự kiện Nhân văn – Giai phẩm, họ – các nhà trí thức mơ mộng sẽ nhận ra là đây không phải thời của nhóm phái văn học và họ tự giải tán và phải đi con đường khác do Đảng lãnh đạo. Đây là bước thứ hai của đời ông. Ông giác ngộ về lí tưởng của Đảng Cộng sản và được chuyển sang trường Đại học Tổng hợp dạy văn học phương Tây, thay cho một số thầy bị quy là có khuynh hướng “xét lại”. Ông chủ biên mấy bộ giáo trình, làm mấy bộ từ điển văn học. Tuy là giảng dạy văn học phương Tây, nền văn học đang định hướng văn học hiện đại, nhưng do định hướng xã hội chủ nghĩa, phê phán nghệ thuật tư sản, cho nên ông chỉ đi sâu vào nghệ thuật Phục hưng hoặc nghệ thuật vô sản. Từ những năm 60 đến 70 ông giới thiệu sáng tác của  Shakespeare,  Rabelaise, Văn học công xã Paris, sáng tác của Henri Barbusse. Nhưng ông vẫn thích phê bình văn học, thích đóng góp tích cực cho văn nghệ vô sản. Bắt đầu từ những năm đầu 70, là những năm lí luận phê bình văn học Việt Nam trở nên giáo điều bậc nhất,  ông chuyển sang bình luận về các sáng tác của Hồ Chí Minh theo diễn ngôn thời thượng, như Bản án chế độ thực dân Pháp với khuynh hướng khẳng định phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa ở trong đó[1], nghiên cứu Truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc và khẳng định nghệ thuật xây dựng các điển hình văn học[2].  Đọc thơ Sóng Hồng như là sáng tác tiêu biểu của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa[3]. Ngày nay ta biết các khái niệm ông đưa ra đều là những cái áo quá rộng đối với sáng tác. Và đỉnh cao của khuynh hướng phê bình chính trị hoá này là cuốn sách Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa , Nxb Văn học năm 1978, với lời đề từ trang trọng lấy từ Nghị quyết Đại hội Đảng và tác phẩm của Trường Chinh.  Ta biết văn học này đã được Hoàng Trinh phê phán rồi từ năm 1969 – 1971 trong sách Phương Tây, văn học và con người, 2 tập, nhưng có lẽ ông Hiểu cho là chưa phê phán đủ tầm, nên ông phải làm mới, làm lại cho triệt để. Một nhà nghiên cứu văn học phương Tây lâu năm mà đi đến bước phê phán ấy thật là khó hiểu. Khát vọng phấn đấu của ông là để trở thành nhà nghiên cứu – chiến sĩ theo đường lối vô sản trên măt trận tư tưởng  như thế là rất nổi bật. Nếu cứ thế mà đi tiếp, không biết thân phận và diện mạo của ông sẽ thế nào? Nhưng thời thế xoay chuyển nhanh quá, chỉ đến năm sau, 1979,  Nguyễn Minh Châu và Nguyên Ngọc đã nhìn thấy cái văn nghệ vô sản ấy có nhược điểm thế nào. Cải tổ “perestroika” ở Liên Xô rầm rộ ra sao. Ý thức văn nghệ cùng với tư duy kinh tế thay đổi nhanh chóng dẫn đến công cuộc Đổi mới của Đảng. Tôi chắc rằng ông đã  nhận thấy sự sa đà của mình và thời thế đã cứu ông một cú thua trông thấy. Thêm nữa, cuối những năm 80 đầu 90 ông có dịp đi Pháp theo chương trình hợp tác văn hóa với Đại học Paris 7, chắc hẳn ông có thêm thu hoạch về tư tưởng. Và ông đã quyết tâm Đổi mới, tạo ra bước ngoặt thứ ba làm thay đổi thân phậndiện mạo nhà phê bình của ông. Và đúng như vậy, nhờ đổi mới phê bình văn học mà ông có được thân phận và diện mạo trong phê bình văn học Việt Nam. Sau này khi đã thân với ông, tôi hỏi, thưa anh, liệu có thể sửa chữa để tái bản cuốn văn học hiện sinh được không anh, ông đã trả lời dứt khoát, không được đâu anh ạ.

    Năm 1981 – 82 tôi vừa học ở Liên Xô về, đăng một số bài báo về Truyện Kiều và báo cáo về thi pháp học tại  một hội trường của Đại học tổng hợp ở khu  tập thể Đại học Bách khoa được ông chú ý, và rồi tôi được làm quen với ông, ông mời tôi đến nhà ông chơi, ngôi nhà ở gác hai trong con hẻm ở phố Hàng Bài, một căn nhà khó mà gọi được là nhà, bởi nó chênh vênh và quá hẹp. Rồi ông còn mời tôi đến trao đổi về thi pháp học với bộ môn Văn học nước ngoài  tại nhà chị Lê Hồng Sâm ở khu tập thể Nguyễn Công Trứ quận Hai Bà Trưng Hà Nội. 

    Từ đó tôi còn nhiều lần tạt vào nhà ông chơi. Tôi đã nghe tiếng ông từ hồi ở nhóm Lê Quý Đôn. Một bậc thầy đáng kính. Bây giờ thấy ông gần gủi, nghĩ nhiều, nói ít, nhỏ nhẹ, đúng là người Hà Nội. Mấy cuốn sách viết trong thời Đổi mới ông đều tặng tôi với lời đề tặng trân trọng và lời khích lệ: “Mong anh có thêm nhiều công trình”. Ông ngồi trên giường, đun ấm nước sôi trên cái bếp  dầu hoả nhỏ  bé, rồi pha nước mời tôi uống. Tiếng nói nhỏ nhẹ, chậm rãi, một phong cách lịch lãm rất trí thức Hà Nội. Ông bảo: Bây giờ chính là lúc phải nhanh chóng làm thay đổi lí luận và phê bình văn học Việt Nam. Mình phải làm nhanh, như thể đặt viên gạch xếp hàng vào giai đoạn mới.  Phải chăng ông lo thời thế có thể quay ngược lại?  Nhưng rõ ràng ông đã hết lòng để đem đến những gì mới nhất. Tôi là học trò từ Nga về, còn ông là chuyên gia văn học phương Tây lão luyện. Tôi biết ông có thể không thông thuộc Nga, song ông thì thông thuộc một thế giới văn học khác mà tôi còn biết rất ít. Ông hỏi tôi: Anh Sử này, liệu ta có thể đem cặp phạm trù ý nghĩa/kí hiệu, cái được biểu đạt/cái biểu đạt  mà thay cho cặp phạm trù nội dung và hình thức không anh? Tôi đã trả lời với ông rằng  nói chung là có thể được. Ông M. Kagan ở Nga đã làm thế (Ở Việt Nam, sau này tôi biết Hoàng Trinh cũng hiểu thế trong bài phê phán chủ nghĩa cấu trúc), song hình thức còn có vẻ đẹp của nghệ thuật, còn kí hiệu thì không nhất thiết. Không phải kí hiệu nào cũng trở thành hình thức nghệ thuật. Ông im lặng, trầm ngâm. Từ đây tôi bắt đầu thấy ở ông một cuộc chạy nước rút để đổi mới phê bình văn học, bởi thời gian của ông đã không còn nhiều. Chẳng bao lâu ông có bài giới thiệu về thi pháp học trên báo Văn nghệ (1992), và chẳng bao lâu sau, Nxb KHXH đã công bố công trình  Đổi mới phê bình văn học, năm 1993 của ông. Đó là năm ông vừa 70 tuổi. Tôi tuy đã mở chuyên đề “Thi pháp học” ở Đại học Sư phạm Hà Nội,  từ năm 1982, đã nói chuyện nhiều nơi, song đến năm 1993, do Vụ Bồi dưỡng giáo viên yêu cầu tha thiết quá cho nên mới cho họ in tập sách nhỏ Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Bởi theo tôi, khi chưa chuẩn bị đầy đủ thì chưa công bố vội. So sánh như thế để thấy hồi ấy tôi còn ít tuổi, chưa vội gì cả, tôi không cần “xếp gạch”. Ý thức Đổi mới của ông rất rõ, ông có nhu cầu tuyên ngôn.  Bắt đầu từ bình bài Tiếng thu, bình một số tác phẩm Tự lực văn đoàn, bình thơ Hồ Xuân Hương, bình Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, bình Truyện Kiều…Ông vừa phê bình vừa xây dựng lí luận.  Ông viết giới thiệu thi pháp là gì, viết thi pháp thơ, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp kịch. Ông viết mà không kịp trích dẫn cụ thể, cho nên khó biết ông theo phái nào, chỉ biết ông đã chuyển sang nghiên cứu hình thức nghệ thuật của văn học thể hiện qua văn bản với nghệ thuật ngôn từ. Đọc mấy bài giới thiệu thi pháp học của ông thì biết ngay ông không phải chuyên về lí luận văn học. Nhưng khuynh hướng chính là theo  phương pháp phê bình mới ở Pháp, nghiên cứu sự vận hành, sản sinh của chữ như kiểu của J. Ricardou, Ju. Kristeva, R.Barthes…khúc xạ qua cách hiểu của ông. Năm 1987 ở Pháp có cuốn Phê bình văn học thế kỉ XX của Jean Yves Tadié, không biết lúc đó ông đã đọc chưa. Ở phương Tây người ta hiểu thi pháp là lí luận văn học, cả Kibédy Varga, Tz.Todorov, G. Genette đều hiểu thế, mặc dù diễn giải cụ thể khác nhau, và họ đều phân biệt rạch ròi hai lĩnh vực nghiên cứu thi pháp với phê bình văn học.  Thi pháp học chỉ nghiên cứu lí thuyết, không nghiên cứu văn bản cụ thể. Còn khi tiếp cận tác phẩm cụ thể như Todorov đối với Chuyện mười ngày hay Genette đối với Đi tìm thời gian đã mất, thì chỉ nhằm khám phá các hình thức của nó về mặt lí thuyết, chứ không phải phê bình, tìm nghĩa, đánh giá. Như thế, theo tôi hiểu, ở phương Tây không thể có được khái niệm “phê bình thi pháp học”, thậm chí viết như thế là sai. Các bài phê bình văn học của ông, theo quan niệm của A. Kibédy Varga[4] (1930-2018), Genette (1930-2018) hay Tz. Todorov (1939-2017), dứt khoát đều không phải là thi pháp. Chỉ cần ông đọc chương 9 trong  cuốn sách của Yves Tadié nói trên thì ông sẽ thấy ngay. Ngay cả thuật ngữ “thi pháp học hiện đại”, thì cả phương Tây lẫn Nga đều không có. Đối với họ thi pháp là thi pháp, thế thôi. Các mục thi pháp thơ, thi pháp văn xuôi, tiểu thuyết, thi pháp kịch, có thể nói ông thích gì, nhớ gì thì viết nấy, không có tính hệ thống nào cả. Nhưng bây giờ điều ấy không còn quan trọng nữa. Mục đích của ông lúc này là nêu cái mới chứ không nhằm giải quyết. Chẳng hạn làm sao giải quyết được vấn đề văn học và ngôn ngữ học trong một bài viết? Mục đích hướng tới của ông không chỉ là thi pháp, mà như tên cuốn sách: Đổi mới phê bình văn học, cho nên trong sách, ông đã nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như phê bình văn học với ngôn ngữ học, phê bình văn học với phân tâm học, phê bình văn học với xã hội học, giới thiệu về Bakhtin theo tài liệu của Aucouturier và Tadié, phê bình mới, tương tự như sách của Nguyễn Văn Trung ở miền Nam 30 năm trước. Qua đây ta thấy ta đã chậm hơn miền Nam những chừng ấy năm. Có thể hiểu đó là phạm vi vấn đề mà ông hứng thú. Có thể nói ông đã trình ra một nhãn quan rộng mở, làm tiền đề cho đổi mới phê bình văn học đương thời, ngược hẳn với những gì ông đã viết 10 năm trước. Có thể nói, ông đã hoàn toàn thay đổi mình, trở về với bản tính của chính ông mà một thời nó đã bị những ảo ảnh huy hoàng che lấp. Còn lí luận có sơ sài chút ít vẫn không sao. Dù sao tuyệt đại bộ phận độc giả không mấy ai đi sâu vào vấn đề học thuật. Chỉ biết rằng quyển sách và bài viết  của ông nêu những vấn đề mà trước nay ít người nói, thế là có những tác dụng rất tích cực. Một là nó đặt một vấn đề rất đàng hoàng: Đổi mới phê bình văn học, có thể vận dụng các phương pháp mà trước đây còn né tránh. Hai là thêm một tiếng nói mạnh mẽ khẳng định phương hướng nghiên cứu thi pháp văn học ở Việt Nam, khiến cho hướng nghiên cứu thi pháp học mà tôi khởỉ xướng từ năm 1981 không rơi vào đơn độc. Thứ ba, đó là tiếng nói của một giáo sư uy tín, mà những bài viết ở trong đó với sự tinh tế và uyên bác đã như chắp cánh thêm cho thi pháp học ở Việt Nam. Thứ tư ông khẳng định việc nghiên cứu hình thức nghệ thuật là xu hướng của thời đại không thể cưỡng được. Người ta không còn có thể lấy nội dung mà làm khó dễ cho việc nghiên cứu hình thức. Có thể nói từ mấy bài báo của tôi năm 81- 82, sang quyển sách của Phan Ngọc 1985 nói về phong cách Truyện Kiều, quyển Thi pháp thơ Tố Hữu của tôi 1985 – 1987, đến cuốn sách Con mắt thơ của Đỗ Lai Thúy năm 1992, cuốn Từ kí hiệu học đến thi pháp học của Hoàng Trinh cũng năm 1992, đến cuốn Đổi mới phê bình văn học của Đỗ Đức Hiểu năm 1993, tất cả các công trình ấy đều hướng về khám phá hình thức nghệ thuật. Chỉ trong vòng hơn 10 năm, mà phê bình văn học Việt Nam đã có cả một khuynh hướng Đổi mới hẳn phê bình  nghiên cứu văn học, nghiên cứu thi pháp học, đánh dấu một sự thay đổi thật sự không thể đảo ngược của thời đại.  Thực chất của cuộc này là không xét văn học như một phản ánh nữa, mà xem nó như một sáng tạo và biểu đạt tư tưởng, tình cảm nhân sinh bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là một khuynh hướng không thể phủ nhận. 

     Vậy thi pháp học Đỗ Đức Hiểu có những đặc sắc gì? Ông hiểu thi pháp học là nghiên cứu, miêu tả hình thức nghệ thuật của văn học, chủ yếu là ngôn từ nghệ thuật trong văn bản, sự sáng tạo của chữ, chữ có một đời sống riêng. Theo hướng đó ông đã phân tích rất thú vị về ngôn ngữ trong thơ của Hồ Xuân Hương, ngôn từ nhại trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Cho đến lúc ấy ở Việt Nam chưa có ai phân tích theo kiểu ấy. Ông cũng phân tích thơ nhạc trong bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, nhưng theo tôi là chưa thành công vì nó có vẻ cũ.  Ông cũng phân tích một số trích đoạn trong Truyện Kiều, thể hiện cái không gian nghệ thuật , làm nổi bật lên ý nghĩa của hình thức nghệ thuật.  Ông phân biệt hai loại tiểu thuyết: tiểu thuyết ý thức và tiểu thuyết tiềm thức và ông tìm thấy  trong tác phẩm Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết và truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh  các biểu hiện của loại tiểu thuyết tiềm thức đó. Có thể nói đó là những phát hiện.

     Nghiên cứu thi pháp của Đỗ Đức Hiểu vẫn còn dấu vết của sự mô phỏng nước ngoài. Ví dụ  xem Truyện Kiều là một truyện nhân vật đi tìm tình yêu, rồi vẽ sơ đồ theo gợi ý của Valéry, theo tôi là chưa ổn. Bởi sau khi gặp Kim Trọng và hứa hôn với chàng thì coi như tình yêu đã tìm xong rồi, hết chuyện rồi, chỉ còn chờ ngày cưới, nhưng khi chưa cưới thì gặp gia biến và xảy ra một chuyện khác. Thời gian gia biến là một câu chuyện khác, không phải chuyện đi tìm tình yêu. Hay nói thơ mới là cuộc nổi loạn của ngôn từ thơ, nghe cũng rất Tây, nhưng có lẽ chưa chứng minh dược “sự nổi loạn” như người đọc chờ đợi.  Tuy có một số khiếm khuyết không làm mờ đi sự đóng góp đúng đắn, kịp thời của ông cho khuynh hướng văn học. Điều quan trọng là nó đã kịp làm thay đổi thân phận và diện mạo của ông với tư cách là một nhà phê bình văn học .  Chỉ hai năm sau cuốn Thi pháp hiện đại năm 2000 thì ông ốm nặng rồi vĩnh biệt chúng ta. Tôi chắc rằng nơi chín suối, hẳn ông sẽ nở nụ cười mãn nguyện.  Chỉ trong vòng hơn 10 năm mà ông đã kịp hoàn thành sứ mệnh của một đời người. Trong thế hệ của ông, những người sinh  vào những năm 20, chỉ có ông là tham gia phê bình văn học đổi mới.


[1] Đỗ Đức Hiểu, Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chủ Tịch và văn hoc hiện đại – Tạp chívăn học,1971, số 4, tr. 1.

[2] Đỗ Đức Hiểu, Hồ Chủ Tịch, người sáng tạo  những điển hình văn học, Tạp chí văn học, 1975, số3, tr. 11.

[3] Đỗ Đức Hiểu, Những bài thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa (Nhân đọc thơ Sóng Hồng) – Tạp chí văn học, 1975, số 5, tr. 101.

[4] Kibedi Varga A. Theorie de la littérature, Picard, Paris, 1981.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

MỘT BỨC TRANH ĐỘC ĐÁO VỀ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Đọc Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại – Khai sinh và tiến trình của GS Bùi Xuân Bào

     Trong ngành nghiên cứu văn học Việt nam hiện đại vẫn còn không ít tác phẩm bị vùi lấp và lãng quên. Việc tìm ra chúng và giới thiệu với bạn đọc hôm nay là một thái độ trân trọng đối với di sản. Cuốn sách của Giáo sư Bùi Xuân Bào viết cách nay đã lâu năm là một ví dụ như vậy.

     Tôi gọi sách Tiểu thuyết Việt nam hiện đại của Giáo sư Bùi Xuân Bào (Le Roman Vietnamien contemporain. Tendance et Evolution du roman Vietnamien contemporain 1925-1945.)là bức tranh tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, bởi vì đây là một cách hệ thống hóa của một nhà nghiên cứu từ 70 năm trước. Ngày nay đã có nhiều người nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam hiện đại với nhiều cách tiếp cận khác, nhưng có thể chưa biết đến tác phẩm của Giáo sư Bùi Xuân Bào, do sách viết bằng tiếng Pháp, quyển sách có lẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu sự khai sinh và tiến trình của thể loại tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ Việt Nam trong vòng 20 năm từ năm 1925 đến năm 1945, một thể loại văn xuôi quan trọng bậc nhất của văn học hiện đại. Trước đó,các ông Mộc Khuê, Vũ Ngọc Phan và một số nhà phê bình văn học khác đã đề cập đến nó trong các công trình của họ, nhưng tách ra thành một chuyên đề để nghiên cứu riêng với trêm 440 trang thì phải bắt đầu từ ông. Sau ông mới có công trình liên ngành của Nguyễn Trần Huân Le roman Vietnamien contemporain. Etudes interdisciplinaire sur le Viet Nam. Volume I SAIGON 2è semestre 1974 và công trình Tiểu thuyết Việt nam hiện đại của Phan Cự Đệ ở Hà Nội (1974).

Đây vốn là luận án phụ Tiến sĩ văn chương mà ông trình ở Sorbonne năm 1961, viết bằng tiếng Pháp, in trong Tủ sách nhân văn xã hội, Sài Gòn, 1972.

     Luận án văn chương thời nào nói chung cũng làm theo thời thượng. Luận án chính đề tài là “Sự ra đời của chủ thuyết Anh hùng nhân bản: Văn chương Pháp giữa hai Thế chiến”, thì luận án phụ cũng là xét văn học trong quan hệ với xã hội, thời cuộc. Khái niệm tiểu thuyết ở đây chỉ là giới hạn một phạm vi đề tài nhiều hơn là vấn đề thể loại văn học. Chọn 20 năm tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX để nghiên cứu có cơ sở của nó, vì phải đến năm 1925 tiểu thuyết Việt Nam mới chính thức xuất hiện và đến 1945 khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, tiến trình phát triển của tiểu thuyết đã bị ngắt quảng. Ông Bùi Xuân Bào đã vượt lên cách phân chia sáng tác của các học giả Dương Quảng Hàm, Mộc Khuê, Nguyễn Xuân Huy để nhìn tiểu thuyết Việt Nam hiện đại một cách khác. Đặc sắc của chuyên luận thể hiện ở mấy điểm sau: 1. Tác giả chia 20 năm tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thành ba giai đoạn: từ 1925 đến 1932 giai đoạn hình thành; từ 1932 đến 1940 giai đoạn phát triển rực rỡ; từ 1940 đến 1945, chủ yếu theo sự phát triển của tiểu thuyết trong thời cuộc. Đặc biệt đáng chú ý là sự phân tích tiểu thuyết giai đoạn 1932 đến 1940. 2. Tiểu thuyết ít được được xét theo đặc trưng thể loại, mà theo bối cảnh lịch sử và khuynh hướng tinh thần đạo đức của xã hội. 3. Khẳng định ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa và tiểu thuyết Pháp, lấn át ảnh hưởng Trung Hoa, vì thế tác giả chú trọng phương pháp văn học so sánh và có thể xem đây là một công trình văn học so sánh xuất sắc văn học Pháp Việt, Trung Việt đầu tiên ở Việt Nam. 4. Tác giả tỏ ra là một nhà giáo có ngòi bút phân tích tinh tế các hình tượng tác phẩm tiểu thuyết nửa đầu thế kỉ XX.

     Về mối quan hệ giữa thể loại và tinh thần thời đại có thể nghe ý kiến của tác giả   về cách tiếp cận của mình: “Nó đánh dấu sự khởi đầu của một phong trào rộng lớn rồi ra sẽ làm đảo lộn hoàn toàn các quan niệm về đạo đức mà người Việt từng có qua nhiều thế kỷ”(tr. 59), “các thể loại chỉ khiến chúng tôi quan tâm trong chừng mực chúng cho phép chúng tôi phát hiện hoặc làm nổi bật một xu hướng mới, một chủ đề mới.”(tr.67).

      Về giai đoạn hình thành tác giả phân tích kĩ hai tác phẩm cuả Nguyễn Trọng Thuật và Hoàng Ngọc Phách và các tác phẩm khác của Nhất Linh, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Thời Xuyên và Từ Ngọc Nguyễn Lân, Hồ Biểu Chánh.  Về giai đoạn phát triển rực rỡ tác giả chia làm hai dòng tiểu thuyết lãng mạn và hiện thực. Dòng lãng mạn chia làm nhiều nhánh: lãng mạn hy sinh (Khái Hưng), lãng mạn nổi loạn (Nhất Linh), lãng mạn xã hội (Hoàng Đạo), lãng mạn miền ngược (tiểu thuyết đường rừng), lãng mạn người hùng(Lê Văn Trương) , lãng mạn ấn tượng (Thạch Lam). Dòng hiện thực chia làm hiện thực trào phúng (Nguyễn Công Hoan), hiện thực về xã hội mục rữa (Vũ Trong Phụng), hiện thực xã hội mác xít (Trương Tửu), hiện thực nhân văn (Nguyên Hồng). Giai đoạn 1940-1945 gồm các loại tiểu thuyết như phong tục, gia đình (Khái Hưng, Mạnh Phú Tư,  Thiết Can,  Đồ Phồn), tiểu thuyết nhà quê (Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển), tiểu thuyết xã hội (Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Đức Quỳnh), tiểu thuyết tình cảm, tình yêu, tâm lí (Thanh Tịnh, Nhượng Tống), tiểu thuyết hoài cổ  (Chu Thiên, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân), tiểu thuyết tâm lí (Khái Hưng, Nhất Linh).  Phần kết luận tác giả nhấn mạnh, hai nhân vật nông dân và người phụ nữ Việt Nam là hai nhân vật nổi bật nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

     Nhìn qua bức tranh tiểu thuyết của GS Bùi Xuân Bào, bạn đọc sẽ thấy sự phân chia tiểu thuyết theo đề tài, chủ đề làm cho bức tranh phong phú, nhiều sắc màu, có kiến giải sâu sắc, nhất là về con người cá nhân trong tiểu thuyết, song khó tránh làm cho đường nét bức tranh có phần rối, và mặt khác, thiếu vắng các tác phẩm quan trọng có tác dụng tố cáo xã hội mạnh mẽ như Bước đường cùng, Vỡ đê, Tắt đèn, Chí Phèo, Sống mòn cũng dễ hiểu, bởi luận án được bảo vệ tại Pháp khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta đã kết thúc, nhưng phải đến năm 1973 hai nước mới thiết lập quan hệ ngoại giao. Sống mòn xuất bản năm 1956 tại Hà Nội, có thể ở Sài Gòn chưa có. Nếu có chúng bức tranh khuynh hướng văn học sẽ có khác. Vào thời mà tác  giả làm luận án, ở Pháp người ta cũng ít ai quan tâm đến các vấn đề nghệ thuật tiểu thuyết như người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật. Quan tâm đề tài là cách tiếp cận dễ được chấp nhận nhất.

      Đọc sâu vào cuốn sách bạn đọc sẽ được biết thêm nhiều tư liệu quý báu, những tác phẩm ngày nay ít biết, những câu trích dẫn rất đắt, những nhận định thỏa đáng của người đương thời, tất nhiên cũng khó tránh có những nhận định chưa thỏa đáng đối với nhà văn và tác phẩm nào đó, khác hẳn với những nhận định hiện thời, nhưng ta không quên, đây là một tài liệu lịch sử, đã ra đời cách nay đã  hơn 70 năm.

        Chính vì tầm quan trọng của đề tài tiểu thuyết Việt nam hiện đại, những khác biệt trong quan niệm của tác giả mà cuốn sách là một tài liệu tham khảo quý dành cho những ai muốn tìm hiểu tiểu thuyết Việt Nam và đông đảo bạn đọc.

     Hà Nội, ngày 8 tháng 1 năm 2024.

                   Trần Đình Sử

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

GOLDBLATT HOWARD NÓI VỀ TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI

Trần Đình Sử thuật lại

Howard là nhà Hán học nổi tiếng người Mĩ, là người dịch văn học Trung Quốc, đặc biệt ông đã dịch tiểu thuyết Vú to mông lớn của Mạc ngôn, khiến cho tác phẩm này đoạt giải Nobel. Ông có cuộc nói chuyện tại Hồng Kông về văn học Trung Quốc với nhan đề “Tại sao văn học Trung Quốc không ra được ngước ngoài”. Do bài nói có bản quyền, cho nên tôi lược dịch để bạn đọc Việt nam theo dõi.

Vấn đề người Trung Quốc băn khoăn là vì sao, văn học đương đại Trung Quốc, một nền văn học phong phú, đã dạng, hay như thế mà nước ngoài không lấy gì làm mặn mà? Howard đã nói những điều mà nhiều người phương Tây đang suy nghĩ.

Trước hết phải nghĩ xem cái “Văn học Trung Quốc” mà bạn định giới thiệu kia là cái gì? Có nước muốn giới thiệu văn học nghiêm túc của mình, có nước giới thiệu văn học không nghiêm túc. Có thứ không nghiêm túc, tức là thông tục,  được thế giới ưa thích. Nếu một nước nổi tiếng thế giới bằng văn học không nghiêm túc thì có sao không? Có lẽ vì thế mà ông đã dịch tác phẩm của Vệ Tuệ và tiểu thuyết Totem sói sang tiến Anh?

Vấn đề thứ hai, ra nước ngoài như thế nào? Nêu một tác phẩm được giải Nobel mà người đọc các nước không thích đọc, vậy như thế có đáng làm hay không? Đây là vấn đề tôi nêu để mọi người suy nghĩ và thảo luận.

Cũng cần phải nói thêm tôi bàn đây chủ yếu là về tiểu thuyết, bởi vì tôi phiên dịch tiểu thuyết, và tôi xin nói rằng, gần 10 năm nay, tiểu thuyết Trung Quốc không dược người đọc tiếng Anh thích thú. Các nhà xuất bản không muốn xuất bản tác phẩm dịch tiểu thuyết Trung Quốc. Cho dù xuất bản thì cũng không tổ chức ra mắt om sòm. Thị trường văn học cũng khó đoán như thị trường cổ phiếu, lên xuống bất thường, nhưng có quy luật của nó.

Dư luận của phương Tây nói chung cho rằng, nhà văn Trung Quốc sáng tác thường thiếu kỉ luật, viết nhanh quá, tốc độ một giờ 500 dặm Anh. Kết quả là tiền hậu bất nhất,  không phù hợp với sự thực, nhân vật và cốt truyện hoang đường, thiếu logic. Có thể nói đó là hiện tượng “Nôn nóng” như tên gọi của một tiểu thuyết của Mạc Ngôn. Đây là vấn đề mà nhà văn và giới phê bình văn học Trung Quốc cũng thừa nhận. Đây là do nhà văn Trung Quốc nôn nóng nổi tiếng, họ thiếu lòng kiên nhẫn. Vì thế họ không thể sáng tạo được tác phẩm lớn có giá trị nghệ thuật. Đây là vấn đề thái độ, ngoài ra còn có vấn đề kinh nghiệm và kĩ thuật nữa, họ không nhìn thấy những vấn đề cần được lí giải trong tiểu thuyết của họ. Tôi nói các điều trên không vì bới lông tìm vết, mà mong được hiểu sâu hơn vì sao tiểu thuyết Trung Quốc ở các nước phương Tây đang rơi xuống thấp. Dưới đây xin nói các vấn đề của báo Trung Quốc ngày nay.

Nói chung, tiểu thuyết Trung Quôc cũng như tiểu thuyết Hàn Quốc ít được phương Tây thưởng thức, ít nhất là ở Mĩ . Tiểu thuyết Nhật Bản, Ấn Độ, thậm chí Việt nam có vẻ khá hơn đôi chút. Có thể vì nhân vật tiểu thuyết Trung Quốc thiếu chiều sâu. Không phải mọi tiểu thuyết đều thế, nói chung, nữ nhà văn viết sâu hơn. Đại thể tiểu thuyết Trung Quốc có các khuynh hướng sau: tự sự lấy cốt truyện và  hành động làm động lực, đi vào tâm lí rất ít. Đây là vấn đề GS Hạ Chí Thanh cũng đã nêu. Vì thế   độc giả phương Tây không thích. Nhà văn Trung Quốc “ưu thời mẫn thế” nhiều quá, ham hố nói quá nhiều, nhân vật nông cạn, nhưng chính nhân vật mới là cái khiến người đọc hứng thú. Tiểu thuyết phải hay người ta mới bỏ tiền ra mua. Nếu hiểu tiểu thuyết là cái cửa sổ để nhìn thấy chính trị, kinh tế , văn hóa, tư tưởng, thì đương nhiên vẫn đọc loại tác phẩm đó. Nhưng người đọc loại đó rất ít.

Nhà văn Đức Kubin chê văn học hiện đại Trung Quốc là rác, cho rằng tác phẩm xuất sắc nhất của nó vẫn là tầm thường. Ông ấy chỉ trích   nhiều nhất là nhà văn Trung Quốc không đọc hiểu bất cứ tác phẩm ngoại ngữ nào, vì không biết ngoại ngữ, do đó mà nhãn quan rất hẹp. Thiếu một thế giới quan rộng mở. Như Mạc Ngôn, nhà văn giải Nobel, nhưng không biết ngoại ngữ nào.

Tôi đồng ý với nhận định trên, và còn thấy thêm một nhược điểm nữa. Đó là tiểu thuyết của họ dài lê thê, hầu như không biết dến lúc nào kết thúc thì đẹp. Không hiểu vì sao mà thích miêu tả nhiều chi tiết thế. Muốn biến tiểu thuyết thành bách khoa thư? Kể mọi chỉ tiết cho các nhân vật chính, phụ là yêu câu của kể chuyện? Luôn chia tách mạch chuyện thành nhiều nhánh, đưa vào chi tiết không cần thiết, đó là nghệ thuật? Phải chăng để câu độc giả? Tôi cho rằng cái bệnh này có gốc trong tiểu thuyết chương hồi. Ví như Hồng lâu mộng, theo tiêu chuẩn tiểu thuyết phương Tây, đọc rất thú vị, nhưng không phải là tác phẩm lớn, vì nó xen vào quá nhiều chi tiết không cần thiết, làm cho câu chuyện thiếu thông thoáng. (Nhận xét này rất đáng chú ý, Hãy nhớ lại nhận xét của Phan Ngọc khi chê tiểu thuyết Trung Quốc có quá nhiều chi tiêt mà Nguyễn Du khi viết lại đã cắt bỏ một cách tàn nhẫn, khiến Truyện Kiều kể thông thoáng hơn.) Có thể văn học nước khác cũng có khuyết điểm này, nhưng nhà văn Trung Quốc quá độ lượng, cho nên họ không nhìn thấy.

Tôi cho rằng vì ảnh hưởng truyền thống quá sâu, cho nên văn học Trung Quốc khó ra thế giới. Tiểu thuyết phương Tây phát triển đến thế kỉ XX đã có định hình, có quy ước bất thành văn, tất nhiên vẫn có ngoại lệ. Nhưng cái chính theo tôi tiểu thuyết trung Quốc với phương Tây khác nhau nhiều quá. Người phương Tây đọc tiểu thuyết Trung Quốc bằng tiêu chí tiểu thuyết novel của họ cho nên cái truyền thống của Trung Quốc trở thành một thứ khuyết điểm. Vì sao mà nhà tiểu thuyết Trung Quốc thích kể dài dòng? (Theo tôi, Trần Đình Sử, là vì nó bắt nguồn từ lối kể chuyện thoại bản. Người ta kể muốn bắt người đọc chờ đợi kết cục, muốn thế phải nghĩ cách kéo dài, càng kể nhiều buổi, thì tiền càng nhiều. Tiểu thuyết càng dài, lắm chữ thì nhuận bút càng lớn, người đọc phải trả tiền cho nhà văn. Ở đây phải chăng yêu cầu thị trường đã thấm sâu vào tiểu thuyết thọai bản cuả Trung Quốc, mà họ lại coi là truyền thống tốt đẹp, cứ kế thừa, phát huy).

Thời Ngũ Tứ 1919, phái cải cách ở Trung Quốc chủ trương, nếu bỏ truyền thống thì ảnh hưởng sẽ không lâu dài. Theo tôi ảnh hưởng về cách kết cấu tác phẩm của tiểu thuyết Trung Quốc còn rất đậm. Do đó mà không thoát ra khỏi. Như vậy phải chăng có một tiêu chí về tiểu thuyết được quốc tế cộng nhận? Nói thế có thể có người chỉ trích tôi tuyên truyền một chủ nghĩa đế quốc văn hóa. Dùng tiêu chí phương Tây để đánh giá tiêu thuyết Trung Quốc? Tôi cho rằng, nếu tiểu thuyết Trung Quốc có kết cấu chặt chẽ, có tính quốc tế, thì nhất định sẽ đi ra được. Hiện tại Trung Quốc viết theo truyền thống của mình, nhưng người đọc phương Tây không cảm thấy thế. (Trần Đình Sử tôi cho rằng nói thế là đúng, bởi vì toàn bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đều có hai nguồn, một là lấy chuyện sử làm cốt truyện tiểu thuyết, mà chuyện sử thì chủ yếu là biên niên hoặc truyện kí, không lấy kết cấu làm căn bản. Hai là nghề kể chuyện thoại bản, như đã nói trên kể kéo dài, câu giờ, gây đợi chờ, cho nên chưa phải nghệ thuật của tiểu thuyết.)

Ngoài ra thị trường cũng quyết định cách viết tiểu thuyết như thế nào, đó là thực tế. Cho nên tiểu thuyết Anh có nhiều câu mở đầu rất xuất săc, như mở đầu Cá voi trắng của Mellvil: “Cứ gọi tôi là Ishmael”.Mở đầu tiểu thuyết Hai kinh thành của Dickens: “Đây là thời đại tuyệt vời nhất, cũng là thời đại khốn nạn nhất, thời đại thông minh nhất và thời đai ngu xuẩn nhất,” tiểu thuyết Trung Quốc không có câu mở đầu nào hay để nhớ mãi như thế. Nhận xét của tôi có thể    sẽ làm cho độc giả Trung Quốc ghét, song như tôi nói, mục đích là để cho tiểu thuyết Trung Quốc ra ngoài biên giới được. (người đọc Việt nam quá quen với tiẻu thuyết Trung quốc rồi, chẳng biết hay dở gì, cứ thấy là dịch và bán, và đọc!)

Vấn đề tiếp theo là dịch, thế nào là dịch hay, thế nào là dịch dở? Câu trả lời là tùy người mà khác. Nói chung có hai phái. Một là phái Nabokov, chủ trương dịch tiếp cận nguyên tác sao cho người đọc thấy đang đọc truyện nước ngoài. Phái thứ hai là Octavio Pas, chủ trương dịch gần với ngôn ngữ dịch, dễ đọc. Tôi dịch theo triết lí của tôi, đó là dịch cái ý mà tác giả muốn nói chứ không dịch theo từng chữ. Bây giờ Mạc Ngôn đã được giải Nobel rồi, tôi nói dịch sát nguyên văn, nhưng dịch Con Ếch thì khác. Hãy xem Mạc Ngôn nói gì về phiên dịch trong bài điễn từ nhận giải: “Ngày nay càng ngày càng có nhiều tiểu thuyết Trung Quốc được dịch ra tiếng nước ngoài. Nhưng nhà văn viết cho ai, cho độc giả nước mình hay cho thế giới? Mà cho thế giới thì phải qua phiên dịch. Phải chẳng viết cho người dịch dễ dịch? Tôi cho rằng viết cho ai cũng được, nhưng không cho nhà phiên dịch, như thế sẽ làm nghèo văn học, làm hỏng phong cách.” Là một người dịch, tôi tán thành quan điểm đó. Tôi đã dịch ông từ mười mấy năm trước nhưng không hỏi ông nhiều như bây giờ. Nay xin hỏi thêm một câu: Nếu như một nhà văn sau khi viét xong môt tiểu thuyết, không dùng con mắt khách quan mà xem lại thật cẩn thận, xem cấu tứ, kết cấu, có lỗ gì không , có chỗ nào chưa rõ, dùng từ có chỗ nào sai nghiã, để đảm bảo thành phẩm đạt đến mức hoàn thiện, thì có phải có lỗi với người đọc không? Theo tôi phải có một người biên tập giúp nhà văn làm điều đó, vì tác giả khó mà khách quan. Trên thế giới có nhiều nhà biên tập giúp nhà văn thành nhà văn lớn.

Tôi biết nhà biên tập và phiên dịch ở Trung Quốc địa vị không cao, nhuận bút cũng bèo. Khi sách ra nhà văn hưởng hết vinh quang, còn  nhà biên tập và phiên dịch đứng ra bên lề. Có thể do thể diện, đề cao nhà biên tập, không phải nhà văn, sẽ tổn hại uy tín của nhà văn. Nhà biên tập không là nhà văn, nhưng là người độc giả có nghề. Trung Quốc chắc không có một biên tập viên như Maxwell Perkins, người đã làm cho  Fitzgerald, Thomas Wolfe và Hemingway nổi tiếng thế giới. Theo tôi biết, ở Trung Quốc rất ít Nxb có người biên tập có tài. Sách viết không cẩn thận, không có biên tập kĩ càng, đem xuất bản tất nhiên gía trị không cao.
Vậy việc dịch các sách như thế thì thế nào? Từ lâu có người nói tôi dịch sách Trung Quốc theo kiểu “creative translation”, không biết nói theo nghĩa là khen hay chê. Một số bạn TrungQuốc, nói khen đấy, nhưng nghe vẫn rát tai. Tôi xin nói sách nếu có biến động thì đó là việc của biên tập viên của các Nxb Anh hoặc Mĩ., nhưng truyền thôngTrung Quốc cứ bảo là tôi. Các biên tập viên này không biết tiếng Trung, không hiểu văn hóa Trung Quốc, họ cứ theo truyên thống Anh Mĩ mà biên tập. Tiêu chuẩn duy nhất của họ, là xem có phù hợp với hành văn nước Anh, Mĩ hay không. 

Họ không biết tiếng Trung, cho nên nếu bỏ đi một đoạn mà văn thông suốt thì hay hơn, cũng được. Tôi biết một tác phẩm dịch  tiếng Đức sau được giải lớn, nhưng sau mới biết cái bản dịch ấy thực ra đã được viết lại. Đối với nhà văn Trung Quốc kia, đó là một thắng lợi lớn, nhưng đã hi sinh mất chữ tín trong tín đạt nhã.. Tôi thấy nhiều người hiểu lầm chữ tín. Nhưng phần lớn   người dịch đều rất trung thành với tác giả. (Thực tế này cho ta hiểu thế nào là dịch ra các thứ tiếng châu Âu, và không chỉ tác giả Trung Quốc mà các giả Việt nam cũng đều thế,chẳng hạn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,làm sao thoát khỏi biên tập được!)

Vấn đề cuối cùng là người đọc. Vì sao văn học phải được dịch ra tiếng nước ngoài? Vì đa dạng văn hóa, tìm thấy cái khác, xúc tiến đa văn hóa, làm phong phú văn hóa của mình, làm giàu tư tưởng, ngôn ngữ, văn học. Trung Quốc là nước lớn, nhưng không nhất thiết nước lớn thì người ta thích đọc. Dù cho văn học dịch trên thế giới vẫn là một phạm vi nhỏ, nhưng những ai đọc văn học dịch, họ đều tìm các giá trị ưu tú, tư tưởng sâu sắc về con người.

Các bạn nghe tôi có thể không lấy làm vui lắm, có vẻ như tôi bắt bẻ, hạ thấp nhà văn và tác phẩm văn học Trung Quốc. Nhưng  xin nhắc lại mục tiêu của tôi là làm sao cho văn học Trung Quốc được dịch ra nước ngoài nhiều. Tôi mong mọi người thảo luận.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này