Phan Cự Đệ (1933 – 2008) thuộc vào thế hệ những người góp phần hình thành diễn ngôn nghiên cứu, phê bình văn học mác xít Việt Nam non trẻ, hình thành sau cuộc đấu tranh phê phán đánh đổ các bậc thầy liên can trong “vụ án” Nhân văn – Giai phẩm năm 1956. Ông là chuyên gia về văn học Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu văn học bám sát các nguyên lí mác xít và các chỉ đạo của Đảng, xem văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là công cụ đấu tranh giai cấp, và nghiên cứu văn học thì phải phục vụ cho công cuộc đấu tranh xã hội. Ông là nhà nghiên cứu xã hội học mác xít tiêu biểu nhất trong nghiên cứu, phê bình văn học thời kì này mà diễn ngôn của ông đã ăn sâu vào kí ức nhiều thế hệ học trò.
Phan Cự Đệ quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An trong một gia đình có truyền thống nho học. Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp năm 1957, ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, chuyên trách về văn học hiện đại. Ông là một người có sức làm việc bền bỉ, kiên trì, quyết liệt, có niềm tin sắt đá và có nhiều thành quả, được dư luận một thời ghi nhận. Là một nhà khoa học, ông rất coi trọng công tác sưu tầm tư liệu, làm việc công phu, tỉ mỉ và quan tâm trau dồi lí thuyết văn học. Có thể nói ông là nhà nghiên cứu văn học có ý thức nghiên cứu lí thuyết bậc nhất trong các nhà văn học sử Việt Nam đương thời. Trong 40 năm cầm bút ông đã lần lượt cho công bố 25 đầu sách độc lập lớn nhỏ, và hơn 200 bài báo gồm nhiều thể loại: sưu tầm, giới thiệu, khảo cứu, chân dung, lời tựa. Cuộc đời nghiên cứu phê bình của ông, cũng như hầu hết đồng nghiệp phải trải qua hai giai đoạn: trước đổi mới và sau đổi mới. Các công trình viết trước Đổi mới của ông được in lại sau thời Đổi mới đều đã được sửa chữa, bổ sung, có một diện mạo khác nhiều so với các lần xuất bản đầu, và vẫn có giá trị tham khảo. Một nghiên cứu so sánh các sửa chữa sẽ cho thấy ông muốn khắc phục bớt những nhận định cực đoan, phiến diện một thời để theo kịp đà thay đổi của xã hội. Tuy nhiên ý thức đổi mới của ông khá chậm so với diễn biến của thời cuộc. Ở đây để hình dung diện mạo lịch sử của ông, chúng tôi phải trở về với một số văn bản đầu tiên, điểm qua một số nét để thấy khuynh hướng nghiên cứu và phương pháp cơ bản của ông đương thời.
Các công trình khoa học lớn của Phan Cự Đệ ở giai đoạn trước đều lấy các tư tưởng của Trường Chinh trong Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt nam hoặc các bài báo cáo chính thức kháclàm kim chỉ nam. Dư luận học thuật Việt Nam thời ấy thường khen ông làm việc có bài bản, có tính khoa học, nhưng ngày nay nhìn lại có thể phải đánh giá khác đi đôi chút. Cuốn Phong trào “thơ mới” (đã in lần một năm 1966, năm 1982 in lại có sửa chữa và bổ sung [1]) là chuyên luận đầu tiên viết theo quan điểm mác xít về phong trào thơ Mới ở Việt Nam, nhằm chống lại khuynh hướng đánh giá thơ mới quá cao đương thời của các tác giả ở miền Nam, cũng như của một số tác giả miền Bắc như Xuân Diệu, Chế Lan Viên. Năm 1962, trong sách Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Hồng Chương đã lên án thơ Mới là “có tác dụng ru ngủ quần chúng, làm cho quần chúng không nhìn thấy các mâu thuẫn sâu sắc của cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội, làm cho quần chúng xa rời cách mạng và bó tay làm nô lệ.”[2] Đó mẫu mực của diễn ngôn phê bình đương thời. Xin lưu ý là hai chữ “thơ mới” trong sách của mình, Phan Cự Đệ đặt trong ngoặc kép, nghĩa là không có gì mới mẻ. Ta biết Đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 đã có mục đấu tranh “chống chủ nghĩa lãng mạn” thì ông đã thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo. Cũng giống như hầu hết các nhà nghiên cứu đương thời về thơ Mới, kể cả bản thân Hoài Thanh, chuyên luận này chủ yếu vận dụng các tiêu chí chính trị để đánh giá thơ Mới. Chuyên đề này từ khi bắt đầu viết đã có “sự chỉ đạo của đồng chí Hoài Thanh”, nó không chỉ là công trình khoa học, mà còn là công trình đấu tranh tư tưởng. Trong Lời nói đầu bản 1966 tác giả viết: “Chuyên đề này không chỉ muốn giải quyết một số vấn đề lí luận và văn học sử, mà còn có nhiệm vụ đóng góp một phần nhỏ vào công tác đấu tranh tư tưởng hiên nay” (tr.3/1966)[3], tiếp theo trích dẫn nghị quyết đảng về đấu tranh giữa hai con đường để làm cơ sở. Tác giả tự đặt nhiệm vụ cho mình: “Chuyên đề này sẽ phân tích những tác hại khách quan của văn học lãng mạn tiêu cực. Cụ thể chúng tôi sẽ tập trung phê phán những quan điểm mĩ học tư sản, chủ nghĩa cá nhân tư sản, những biểu hiện bi quan, yếu đuối, bấp bênh, dao động, mơ hồ về đấu tranh giai cấp…của giai cấp tư sản.”(tr.4/1966). Lời nói đầu bản 1982 đã nói: “Chúng tôi cho rằng bản chất của “thơ mới” lãng mạn là tiêu cực, thoát li và đã có những màu sắc suy đồi, khách quan mà nói, thơ ca lãng mạn ít nhiều đã làm cho thanh niên trở nên bi lụy và do đó làm quẩn bước chân của họ trên con đường đi đến cách mạng” (tr.5-6/1982). Ông đặc biệt lo lắng cho “số cán bộ hiện nay đã ngoài 40 tuổi, có một số bây giờ còn thuộc “thơ mới”…không biết nên xử lí như thế nào đối với món hành lí đó?” (tr.16/1966). Có vẻ như ông muốn trục xuất loại thơ này ra khỏi kí ức của một thế hệ người. Mục đích viết sách là cung cấp tài liệu để “đấu tranh chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của thơ ca lãng mạn trước 1945” (tr.8/1982). Như vậy đối tượng nghiên cứu của tác giả là một hiện tượng tư tưởng tiêu cực, có hại, chứ không phải là một phong trào thơ ca. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích bản chất giai cấp và suy diễn từ mệnh đề thoát li hiện thực, kết tội không dám chống thực dân đế quốc, không đáp ứng yêu cầu chính trị của giai cấp vô sản. Sách có 7 chương, trừ 3 chương đặt vấn đề, chương kết luận, chương lịch sử phong trào, còn 4 chương gồm: “Quan điểm mĩ học của các nhà “thơ mới” lãng mạn”, “Con đường bế tắc của chủ nghĩa cá nhân”, “Những mặt tích cực và tiến bộ”, “Một số vấn đề về nghệ thuật”. Ông xuất phát từ nhận định mĩ học “thơ Mới” là “chủ nghĩa nghệ thuật vị nghệ thuật lỗi thời”, thơ Mới là thơ ca “thoát li đời sống”, tuy cũng đề cập tới nhân tố yêu nước tiến bộ của phong trào thơ này, song cả cuốn sách tập trung phê phán “tác hại của thơ mới” như một chủ đề ý thức hệ. Ông phê phán những ai “đề cao một chiều” thơ ca này, “đề cao quá mức, thổi phồng những thành tựu”, mà “chưa thấy hết những ảnh hưởng tiêu cực của phong trào thơ mới”. Ông xem thơ Mới chỉ là thơ lãng mạn “đắm chìm trong tháp ngà”, “đề xướng một cái tôi to tướng, kênh kiệu, đi lù lù giữa cuộc đời và ném đá vào những người xung quanh”(? tr.6). Thơ này “chủ yếu là tiếng nói của giai cấp tiểu tư sản”, “không thuần nhất và thế giới quan tiểu tư sản biến động rất phức tạp”. Người ta thấy rõ, đó là tiêu chí chính trị, giai cấp luận, tiêu chí thực dụng, không phải là các tiêu chí chủ yếu để đánh giá một phong trào thơ ca. Nói đến thơ mới là nói đến chủ nghĩa cá nhân, những con đường thoát li, con người cô đơn. Họ đối lập thế giới quan vô sản với thế giới quan của thơ mới để nhìn thấy hầu hết là bất cập và có hại. Có thể nhận thấy toàn bộ sự phân tích của ông chủ yếu nhằm minh họa các nhận định có sẵn về thơ ca lãng mạn, thoát li, hoặc minh họa các nhận định về yêu nước, tiến bộ của Trường Chinh trong bài báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam năm 1948, bởi đích đến của toàn bộ công trình không có gì khác với các kết luận ấy. Chương Quan điểm mĩ học của các nhà thơ mới đã trích dẫn hết các ngôn luận chứng tỏ thơ này là vị nghệ thuật, thoát li đời sống và đồi trụy, bắt chước chủ nghĩa lãng mạn phản động của phương Tây. Phần nghệ thuật, ông nhận định đó là “một nền thơ mới trên cơ sở truyền thống thơ ca cũ” cũng không cho thấy thực chất của cuộc “cách mạng trong thi ca”. Ông nhìn nó qua lăng kính nội dung của thơ lãng mạn nói chung, như ở Đức, mà Marx và Engels cũng đã bàn đến, cho nên không thấy được đặc trưng của nó như là thơ của tiếng Việt. Ông cho thơ Mới là một “một bước tổng hợp mới thơ phương Tây và phương Đông”, cách nói này cũng chưa thật thỏa đáng, bởi tại thời điểm ấy, cái chính là người ta muốn vượt qua cái cũ, đối lập với thơ cũ, muốn tự giải phóng tình cảm và biểu hiện, lấy Âu hóa để làm mới, do đó không phải là “tổng hợp”. Vì ngay ở Trung Quốc người ta cũng từ bỏ thơ cổ, làm thơ bạch thoại như Hồ Thích, Quách Mạt Nhược, Từ Chí Ma, Băng Tâm, Phùng Chí…Có thể nói việc lấy các quan điểm chính trị công thức làm cơ sở nghiên cứu vốn là thông lệ một thời đã hạn chế rất nhiều đến cách hiểu nghệ thuật thơ ca của nhà nghiên cứu.
Chuyên luận thứ hai đồ sộ của Phan Cự Đệ, bao quát nửa thế kỉ văn học với hàng trăm tác giả và nhiều trăm tác phẩm có tên là Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, 2 tập gồm 800 trang, xuất bản T. 1 năm 1974 và T. 2 năm 1975, được coi là thành tựu lí thuyết đáng kể đương thời. Theo tác giả, đây không phải là công trình văn học sử, mà là công trình lí thuyết. Cuốn sách được viết trong sự ảnh hưởng của lí luận xô viết, một lí luận không mấy quan tâm thể loại, mà chỉ quan tâm đến phương pháp sáng tác, nhân vật điển hình và hoàn cảnh điển hình. Lí luận này dựa trên phản ánh luận, mà phản ánh luận thì xem mọi văn học đều có khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa, chủ nghĩa lãng mạn thoát li có nghĩa là không phản ánh hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên thì không điển hình hóa. Ví thế bố cục cuốn sách gồm 4 phần. Phần 1 nói về quá trình hình thành tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, phần 2 nói về vấn đề điển hình hóa trong tiểu thuyết hiện đại, phần 3 những vấn đề thể lọai của tiểu thuyết, phần 4 nói về lao động của người viết tiểu thuyết, tức nói về sự tu dưỡng thế giới quan của nhà văn. Tiểu thuyết là một thể loại văn học lâu đời và hết sức đa dạng, chưa hoàn thành, rất phức tạp. Hiện vẫn chưa có định nghĩa nào được phổ biến chấp nhận. Nhìn qua bố cục ta thấy tác giả quan tâm trước hết đến tính điển hình, một vấn đề nội dung, mà nội dung này chỉ thuộc vào một loại tiểu thuyết hiện thực (lãng mạn là cái bóng phản chiếu ngược của nó[4]), tức là thu hẹp thể loại vào ba khuynh hướng sáng tác. Còn có nhiều loại tiểu thuyết khác đương thời chưa được nói tới do không đặt được vào cái khung “điển hình” có sẵn. Vấn đề điển hình thực chất là vấn đề phương pháp sáng tác, một vấn đề có ý nghĩa xã hội học của lí luận xô viết, không phải vấn đề của thể loại. Vấn đề thể loại thì chủ yếu ông nói đến tính văn xuôi, tính tổng hợp, tính đa phong cách và đa thanh. Các tính chất này hình thành trong lịch sử, ở những tiểu loại khác nhau, đem gộp chung vào một chỗ có phần bất tiện, bởi có nhiều tiểu thuyết đơn thanh, độc thoại, không đa thanh. Vấn đề tranh luận tiểu thuyết cũ, mới, chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đang rộ lên ở nước ngoài. Vấn đề xây dựng nhân vật và kết cấu, cốt truyện tiểu thuyết đặt trong phần lao động của nhà văn với việc xây dựng thế giới quan và vốn sống có vẻ như đặt sai chỗ, và do đó mà bỏ qua các vấn đề hình thức quan trọng của tiểu thuyết, như vấn đề người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật. Không thể đòi hỏi tác giả có một cách viết khác, vì như vậy là đòi hỏi phi lịch sử, nhưng các nhận xét trên cho thấy giới hạn nghiên cứu văn học của một thời mà ông vừa không thể thoát khỏi, vừa không thể tiếp cận. Nhà nghiên cứu Việt nam lúc ấy tự đối lập mình với thế giới, vừa hiểu biết rất hạn chế lại vừa cố sức chống lại đủ thứ di sản tiến bộ mà mình không với tới. Cái khó của nhà phê bình văn học thời ấy là không dám tự mình nói hoặc nói khác với các ý kiến chỉ đạo.
Đi sâu vào các trang phân tích các tác phẩm cụ thể trước 1945, bên cạnh một số nhận định xác đáng về các tác phẩm hiện thực và lãng mạn thời này, như sự miêu tả tâm lí nhân vật, tính cá thể hóa nhân vật, khắp các trang sách ta có thể bắt gặp các định luận mác xít một thời, ví như “Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn về bản chất mang màu sắc tiêu cực và thoát li”[5] (tr.57), “đề cao những quan điểm nghệ thuật suy đồi” (tr.59), “nghệ thuật vị nghệ thuật” (tr.60), trong tiểu thuyết của họ “sự vận động của tâm lí không thực sự bắt nguồn từ sự vận động lịch sử khách quan” (tr. 67), Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao “chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên” (tr. 111), Nguyễn Công Hoan,Vũ Trọng Phụng thì “tiếng cười vô chính phủ, cười lung tung”, truyện Chí Phèo “cốt truyện và tuyến nhân vật hãy còn đơn giản” (tr. 123). Có thể thấy phần nhiều các nhận định mang tính chất công thức hoặc minh họa cho những nguyên lí đã có trước, các ý kiến của các nhà kinh điển hoặc nhà lãnh đạo. Ông đã phủ nhận hầu hết các giá trị tích cực có thể có của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, vì thế nhiều chỗ tính chất xã hội học rất rõ. Phân tích tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, tác giả chê trách nhà văn “không đặt vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Những màu sắc của chủ nghĩa cải lương Hồ Biểu Chánh đều mang tính chất bảo thủ, phản động, nó gây cho thanh niên những ảo tưởng nguy hiểm, khiến họ thoát li cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc”[6]. Nói thế thì khác nào trách nhà văn không đi theo lí tưởng cộng sản, không có lập trường mác xít một cách phi lí. Tác giả dựa vào các tiêu chí của văn học xã hội chủ nghĩa để phê phán các nhà văn thuộc trào lưu khác. Chỉ một ví dụ này cũng cho thấy được phương pháp nghiên cứu của tác giả. Chương 3 Sự phát triển mạnh mẽ của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả vừa trình bày biểu dương tiểu thuyết HTXHCN Việt Nam, vừa phê phán kịch liệt các khuynh hướng Nhân văn – Giai phẩm, vừa đánh giá các tác phẩm có vấn đề như truyện ngắn của Kim Lân, tiểu thuyết Mười năm của Tô Hoài, Mở hầm của Nguyễn Dậu, Vào đời của Hà Minh Tuân, Phá vây của Phù Thăng, Những người thợ mỏ của Võ Huy Tâm, các tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, đả phá quan niệm “con người bình thường”, “con người phổ biến”. Ông chê tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng thiếu các nhân vật trưởng thành từ giai cấp công nông (tr.361). Phan Cự Đệ tỏ ra có khuynh hướng đòi hỏi văn nghệ phải minh họa cho chính trị, cho nên khi phê bình Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi ông trách nhà văn “đã không làm rõ vai trò lãnh đạo của thành ủy và ủy ban khởi nghĩa, công nhân, nông dân chỉ là cái bóng mờ” (tr. 245). Phần ba bàn về tính điển hình trong tiểu thuyết. Khái niệm “điển hình” là loại nhân vật mà tính cách có tính phổ biến, tên nhân vật trở thành danh từ chung, là “người lạ quen biết” có tính toàn nhân loại. Hegel là người đầu tiên nêu khái niệm điển hình trong sách Mĩ học. Từ V. Bielinski đến M. Gorki khái niệm điển hình dùng cho nhiều loại văn học. Đến khi phát hiện giữa thế kỉ XIX F. Engels nói “tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” là nói nhân vật phải tiêu biểu cho tính cách giai cấp trong lịch sử, nó liền trở thành phạm trù có tính xã hội học, bị chính trị hóa trong tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa, phản đối tính nhân loại siêu giai cấp[7], điển hình là khái niệm mang nội hàm tính giai cấp, trở thành một thứ công thức nghèo nàn trong phê bình. Đến ngày nay khi văn học đã đổi mới từ 1986, nghệ thuật đã bước vào thời kì hiện đại và hậu hiện đại thì khái niệm điển hình đã dần dần không có chỗ đứng trong lí luận và phê bình văn học nữa[8]. Nêu vấn đề điển hình hóa trong tiểu thuyết lãng mạn như Phan Cự Đệ chỉ cốt nêu cái yếu của sáng tác này khi nhận định: “do hạn chế về thế giới quan và phương pháp sáng tác các nhà văn lãng mạn tiêu cực và suy đồi ở Việt Nam hầu như không thực hiện được yêu cầu của điển hình hóa”[9]. Nhận định này ngày nay có thể cần được xem lại, bởỉ vì tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh chủ yếu miêu tả xung đột giữa tầng lớp thanh niên trí thức mới với môi trường gia đình phong kiến với các quan niệm cổ hủ là rất điển hình và có tính hiện thực. Đối với mảng văn học hiện thực phê phán quan điểm của tác giả vẫn là có phần phủ định. Phân tích tính điển hình của nhân vật chị Dậu (Tắt đèn) lẽ ra có thể chê nhân vật bị lí tưởng hóa, trải qua nhiều biến cố mà nhan sắc không hề bị biến đổi, vẫn luôn xinh đẹp để các quan mê, thì ông lại chê “thiếu cá tính”(tr. 297), còn phân tích nhân vật Chí Phèo thì ông khen nhân vật cá tính hóa cao độ, nhưng chê Chí “chưa thật tiêu biểu cho đại bộ phận nông dân lúc bấy giờ”, tức thiếu tính điển hình (tr.304), chỉ xem Chí Phèo là vấn đề nông dân, không phải vấn đề thân phận (tr. 301), ông chỉ xem bản chất giai cấp, chứ không quan tâm bình diện nhân loại. Xem Giông Tố “không vượt qua được bi kịch của một gia đình”, tức là chưa điển hình, mà còn có tính tự nhiên chủ nghĩa. Ông chê các nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam “chưa miêu tả được cuộc đấu tranh tự giác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân” (tr. 340). Ngày nay nhìn lại các nhận định của tác giả không thể không thấy tính sơ lược và ấu trĩ trong đó. Đáng lẽ phải phân tích tác phẩm văn học rồi khái quát lên đặc điểm của chúng, thì Phan Cự Đệ lại đem văn học so với khái niệm lí luận để chứng minh sự yếu kém của nó. Rõ là tác giả đã gọt văn học cho vừa khung lí luận! Đến chương viết về Vấn đề điển hình hóa trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa tác giả không dựa vào một nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nào làm cơ sở để khái quát, mà dựa vào truyền thống ưu tú của văn học và nhân loại để nêu lên những cái “nên” mà văn học phải theo: nào tính khái quát lớn, tính dân tộc, nào giá trị nhận thức, nào tính tạo hình, nào tính lí tưởng, tính tự giác, tính triết lí, đạo đức. Nó khá mơ hồ, chung chung. Tất nhiên, khi phân tích về tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam đương thời tác giả Phan Cự Đệ cũng không khen một chiều, ông vẫn thấy được những mặt hạn chế của chúng. Về đặc trưng thể loại tiểu thuyết, mặc dù tác giả đã rất cố gắng nêu lên nhiều biểu hiện hình thức của tiểu thuyết hiện đại, song ông vẫn chưa nêu rõ đặc trưng của tiểu thuyết. Ngày nay người ta phân biệt tiểu thuyết như là thể loại tự sự phi quy phạm, bao gồm ba điểm mà M.Bakhtin đã nêu[10], giúp phân biệt tiểu thuyết với sử thi và các thể loại tự sự tiền tiểu thuyết. Do đó khi đã bàn về tiểu thuyết thì không cần bàn đến các thể loại truyện văn xuôi trước nó nữa. Tuy nhiên, Phan Cự Đệ và các học giả lúc ấy đã theo Hegel mà chưa phân biệt tiểu thuyết với sử thi, ông gọi tiểu thuyết là “sử thi tư sản,” bởi đã là tiểu thuyết thì nó phản sử thi, chứ không thể ôm sử thi vào mình, trừ phi, đó là tiểu thuyết sử thi với các quy phạm mới. Đó là chưa kể, tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là tiểu thuyết Liên Xô, theo nhà nghiên cứu Ucraina E. Chernoivanenko, đại học Odessa, thì tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa trên thực tế đã lại quay về thể loại tiền tiểu thuyết với các yêu cầu của tu từ học quy phạm mới, kiểu như thể hiện con người mới, tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, tính đảng cộng sản, chủ nghĩa anh hùng, ca ngợi cao cả, mang tư tưởng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển trong tiến trình phát triển cách mạng. Với các yêu cầu đó tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa trên thực tế đã gần với sử thi mà xa rời tiểu thuyết, suy giảm chất tiểu thuyết[11]. Vào thời của mình, Phan Cự Đệ và phần đông học giả miền Bắc chưa biết đến điều này, cho nên việc bàn đến các phương diện hình thức và nội dung tiểu thuyết đều đã rất lỗi thời. Chẳng hạn, ông viết: “Với nội dung của nó, tiểu thuyết có thể gọi là hình thức sử thi lớn, hình thức tự sự có đề tài cỡ lớn”[12].Thì ở đây ông đã nêu ra ít nhất hai quy phạm mới: hình thức sử thi cỡ lớn, hình thức tự sự có đề tài cỡ lớn. Nếu nhà văn viết cỡ vừa và nhỏ, không theo đề tài lớn thì có phải tiểu thuyết không? Ví dụ như Ulysses của Joyce. Các quy định như thế đều xa lạ với tiểu thuyết. Các tranh luận giữa các nhà lí luận Liên Xô với các nhà tiểu thuyết mới Pháp cũng đã thành câu chuyện cũ. Sau khi Liên Xô sụp đổ thì chúng không còn ý nghĩa gì nữa. Phần bốn của cuốn sách viết về việc tu dưỡng thế giới quan Mác Lênin, làm phong phú vốn sống, các quy định về nhân vật, các kiểu kết cấu đều không hợp với tinh thần của thể loại. Phần viết về ngôn ngữ cũng thế, chưa có ý niệm về ý thức đa ngữ, lời người khác…Khi viết chuyên luận này, theo thư mục, ta thấy Phan Cự Đệ đã biết đến công trình Sử thi và tiểu thuyết của M. Bakhtin cũng như công trình Cội nguồn của tiểu thuyết (1963) của Vadim Kozhinov, nhưng ông đi theo con đường khác. Chúng tôi nêu điều này không nhằm đòi hỏi tác giả phải theo Bakhtin hay Kozhinov, mà chỉ muốn nói, lí thuyết của ông khi đó đã có phần cũ so với lí luận của Liên Xô đương thời.
Khi phân tích những nhược điểm của các sáng tác tiểu thuyết tác giả đều quy về nguyên nhân yếu kém về thế giới quan và vốn sống chung chung, mà không chỉ ra được nguyên nhân cụ thể trong từng trường hợp. Nhà phê bình văn học Ngô Thảo đương thời đã phê bình lối nghiên cứu máy móc, cơ giới, chỉ ra hàng ba chục lần tác giả đã dùng đến yếu tố thế giới quan và vốn sống để lí giải tình trạng chất lượng của tiểu thuyết.[13] Qua hai công trình lớn nêu trên, có thể thấy tính chất chính trị hóa văn học, khuynh hướng minh họa, máy móc, xã hội học khá rõ, nó làm giảm sút tính chất khoa học của công trình. Chính do những công trình loại này với uy tín của tác giả đương thời đã tạo nên bầu không khí xã hội học tràn ngập văn đàn. Phát biểu một ý kiến khác với các nhận định có sẵn, có thể sẽ bị ai đó phát hiện và gặp rắc rối như Lê Đình Kỵ khi viết cuốn Các phương pháp sáng tác. Cách tốt nhất để an toàn là nói theo một chiều, lại được tiếng là trung thành kiên định với đường lối trên mặt trận tư tưởng. Nói chung nhà nghiên cứu thời đó chưa có được tính độc lập tự chủ, nhưng Phan Cự Đệ thì tích cực nhập cuộc. Ngày nay, những ai muốn hiểu “tiểu thuyết Việt Nam hiện đại” là gì, thiết nghĩ là phải vượt qua các nhận định cũ như thế để tiến hành nghiên cứu theo cách tiếp cận khác.
Trên đây chỉ đề cập tới hai chuyên luận có tính lí thuyết của nhà nghiên cứu để thấy hình thái lí luận văn học đương thời. Với tư cách là chuyên gia nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, công trình của Phan Cự Đệ rất phong phú, thể hiện sức lao động bền bỉ và đóng góp to lớn đáng nể phục của ông. Ông cùng Hà Minh Đức biên soạn tập Nhà văn Việt Nam hiện đại (1945-1975), dự định 4 tập, mới ra được hai tập[14], 1254 trang, gồm 29 tác giả trong hai cuộc kháng chiến. So với sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan thì ít hơn 50 người, mà phạm vi thì bao gồm cả các đồng chí lãnh đạo có làm thơ như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Xuân Thủy, Lê Đức Thọ. Nếu hoàn thành đúng 4 tập thì chắc chắn vượt xa con số của họ Vũ. Nghiên cứu tiểu sử học đã thành truyền thống của Việt Nam. Tính chất chính trị của tập sách khá đậm. Phan Cự Đệ còn sưu tập, làm tuyển tập, toàn tập, viết lời nói đầu sách cho các nhà văn tầm cỡ như Ngô Tất Tố, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, nó chứng tỏ ông là nhà nghiên cứu có uy tín và một vốn văn học uyên bác.
Cùng với nghiên cứu, Phan Cự Đệ còn là một nhà phê bình văn học đương đại. Ông đã viết về rất nhiều hiện tượng văn học gây tranh cãi của thời đại mình. Viết về Từ ấy của Tố Hữu, ông phê phán những ai xem Tố Hữu là người chịu ảnh hưởng của thơ Mới. Ngày nay có lẽ ai cũng hiểu ảnh hưởng là chuyện thường. Phan Cự Đệ phủ nhận ảnh hưởng, ông muốn chứng tỏ, lập trường giai cấp khác nhau thì không thể ảnh hưởng nhau. Ông phê bình mạnh mẽ tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi nặng về chất tiểu tư sản, ông khẳng định nhiệt tình tiểu thuyết Vùng trời của nhà văn Hữu Mai. Đề cao các sáng tác của Nguyễn Khải, Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Thi. Phan Cự Đệ thuộc lớp nhà phê bình có khả năng áp đặt khuynh hướng phê bình của mình cho dư luận.
Là nhà lí luận, ông đề xướng phương pháp phê bình văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh tới quan điểm văn học mác xít một cách giáo điều, đối lập gay gắt với các phương pháp phê bình văn học khác.
Vào thời kì Đổi mới ông cũng là người đấu tranh quyết liệt bảo vệ thành tựu văn học cách mạng. Ông gọi những ai đổi mới là kẻ “phủ định văn học cách mạng”, rồi ông xướng lên khẩu hiệu chống “phủ định văn học cách mạng”, được nhiều cây bút có tên tuổi hỗ trợ, trong khi chính các nhà văn như Nguyễn Minh Châu lại đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa. Nhưng lần này thì ông áp đặt không thành công.
Sau thời Đổi mới, đời sống văn nghệ có nhiều thay đổi, ông cũng tự đổi mới. Năm 1993 ông viết bài Một bước tiến mới của thi ca Việt nam trên con đường hiện đại hóa để khẳng định phong trào thơ Mới. Một mặt ông điều chỉnh các công trình đã viết, thậm chí là viết lại để có nhận định phù hợp, ví như cuốn Phong trào thơ Mới xuất bản năm 1966 đã được viết lại và bổ sung thành cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 in năm 1997 và năm 2000. Bộ Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã được ông rà soát lại, bỏ đi những câu công thức, sáo mòn, tổ chức in bộ Tuyển tập Phan Cự Đệ 4 tập. Mặt khác, ông chuyển sang sưu tầm, nghiên cứu văn học lãng mạn trước 1945. Ông có cuốn Tự lực văn đoàn, con người và văn chương, thái độ không còn cực đoan như thời viết Phong trào thơ mới và Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và sự đánh giá có phần thỏa đáng hơn, nhưng đã không có gì mới. Ông cũng sưu tầm nghiên cứu về Hàn Mặc Tử, một hiện tượng thơ độc đáo. Nó cho thấy trong sâu thẳm tâm hồn ông yêu thích văn học lãng mạn và nhạc tiền chiến.
Là nhà giáo ông đã viết các Giáo trình lịch sử văn học Việt nam giai đoạn 1930-1945. Trong giáo trình ông cũng xem sự kiện chính trị có tính chất quyết định như giáo trình của Vũ Đức Phúc và Nguyễn Đăng Mạnh. Năm 2004 ông còn chủ biên sách Văn học Việt Nam thế kỉ XX – lịch sử và lí luận. Ông và các cộng sự đã bàn đến các vấn đề như trào lưu khuynh hướng văn học, sự phân loại tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, thơ, kịch, lí luận, phê bình và ngôn ngữ văn học. Phần viết của ông, một mặt, có thiên hướng tranh luận lại với một số ý kiến đánh giá lại về văn học lãng mạn và nghệ thuật vị nghệ thuật, mặt khác, ông chuyển sang nghiên cứu thi pháp thể loại, một phương diện mà trước đây ông chưa làm. Tác giả là người có tri thức uyên bác, đáng tiếc ông không còn đủ thời gian để đi vào một lĩnh vực mới, khiến cho bài viết của ông thiếu cân đối. Ví dụ phần viết về tiểu thuyết phiêu lưu và tâm lí (tr.219-246) có 18 trang thuật về tiểu thuyết nước ngoài, chỉ có 10 trang về tiểu thuyết Việt Nam theo lối chấm phá. Năm 2006 ông cho in Tuyển tập Phan Cự Đệ 3 tập hơn 2300 trang, giới thiệu các thành tựu nghiên cứu của ông. Khuynh hướng thi pháp học càng rõ khi năm 2007 ông xuất bản cuốn Truyện ngắn, lịch sử – thi pháp – chân dung do ông chủ biên. Ông vẫn bàn về thể loại những tác phẩm đổi mới của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng lúc này ông tuổi đã cao, vẫn chưa nhận ra giá trị và ý nghĩa của các tiểu thuyết dòng ý thức, tiểu thuyết phi lí kiểu Kafka hay tiểu thuyết kì ảo kiểu Marquez. Ông vẫn cho rằng các cách viết ấy không có gì mới, vì đã có trong tác phẩm của Tolstoi và Dostoievski cả rồi! Trong những năm cuối đời ông tổ chức Câu lạc bộ giao lưu văn hóa kinh tế quốc tế do ông làm chủ tịch, có những đóng góp nhất định, góp phần mở rộng giao lưu. Nhìn lại sự nghiệp phê bình của Phan Cự Đệ trong giai đoạn thứ nhất, thấy nó hoàn toàn tiêu biểu cho loại hình diễn ngôn phê bình văn học chính trị hóa.
[1] Phan Cự Đệ, Phong trào “thơ mới” (1932-1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982. In 8200 bản.
[2] Hồng Chương, Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Nxb Sự Thật, 1962, tr. 126.
[3] Phan Cự Đệ, Phong trào “thơ mới” (1932-1945), Nxb Khoa học, Hà Nội, 1966. Khổ 13×19, In 1260 cuốn.
[4] Trong văn học lãng mạn có hiện tượng phi điển hình (atypique). Xem Đặng Anh Đào, Tài năng và ngươì thưởng thức, Nxb Tri thức, 2018, tr. 129. Xem thêm: Trần Đình Sử, Lí luận hiện đại về hình tượng nghệ thuật, Báo Văn nghệ, số 50, tháng 11, 12, 1982.
[5] Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội, 1974. Số trang ghi trong ngoặc đơn.
[6] Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội, 1974, tr. 36 – 37.
[7] Các nhà lãnh đạo Nga như A. A. Zhdanov, G. M. Malenkov, N. Khrutchev, lãnh đạo Trung Quốc như Mao Trạch Đông, Chu Dương, Việt Nam như Trường Chinh đều nhấn mạnh đến vai trò của sáng tạo điển hình. Malenkov xem điển hình là phạm vi thể hiện của tính Đảng.
[8] Khi văn kiện đảng không nhắc lại phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa thì có nghĩa cũng không yêu cầu về tính điển hình. Xem: Trần Đình Sử, Nhìn lại lí thuyết chủ nghĩa hiện thực, lí thuyết điển hình (2010). Trong sách Trên đường biên của lí luận văn học, Nxb Văn học, 2014; Chu Tiểu Nghi, Lí luận điển hình như một thực tiễn văn hóa, Tạp chí Văn học nước ngoài, 2013, số 2, tr. 33 – 41, cho biết nhà văn Trung Quốc từ những năm 80 đã không sử dụng điển hình. Ở Việt nam Nguyễn Bình Phương phát biểu: “Tôi không xây dưng nhân vật điển hình”. Điển hình thực chất là một loại tính cách có sẵn, vận dụng vào văn học chỉ tạo ra các nhân vật có tính công thức mà thôi.
[9] Phan Cự Đệ, tài liệu đã dẫn, tr. 290.
[10] Trong bài Sử thi và tiểu thuyết Bakhtin nêu ba điểm sau: ý thức đa ngữ, hệ tọa độ thời gian mới, tiếp xúc tối đa với cái hiện tại. Ba đặc điểm đó đối lập với mọi tu từ quy phạm. Do đó, truyện không bắt buộc phải viết bằng thơ, có nhiều hình thức ngôn ngữ, nhân vật không nhất thiết phải anh hùng, tư tưởng không nhất thiết phải cao cả, nhân vật không được bất biến, hình thức không bị đông cứng. (Những vấn đề văn học và mĩ học, M., 1975, tr. 454-455.
[11] E. M. Chernoivanenco, Tiến trình văn học trong ngữ cảnh văn hóa- lịch sử của nó, Nxb Maiak, Odessa, 1997.
[12] Phan Cự Đệ TLDD, tập 2, tr. 134.
[13] Ngô Thảo, Về một vấn đề thuộc phạm vi phương pháp trong lí luận, nghiên cứu văn học hiện đại, Tạp chí văn nghệ quân đội, số 4 năm 1979. Tr. 123-131.
[14] Tập 1, 1979, Tập 2 năm 1983.